PHẦN MỞ
Dân tộc ta thừa hưởng nhiều tư tưởng triết lý tôn giáo cũng như chính trị và văn học của nhân loại; khởi đầu là tư tưởng Nho gia, Đạo giáo rồi đến Phật học. Suốt thời kỳ dài, "Tam giáo đồng nguyên" đã hòa hợp khá nhuần nhuyễn để dân tộc ta có một nếp sống hài hòa từ văn hóa đến kiến trúc, nghi lễ, chính trị, giáo dục, giao tế... Vì thế, những di tích còn để lại ngày nay ở các tỉnh phía Bắc và miền Trung, mỗi làng đều có Đình, Miếu và chùa trong một quần thể mỗi xã, huyện.
Nét đẹp văn hóa ấy kéo dài gần hai ngàn năm, đến khi Pháp thuộc, nền văn hóa mới, từ trời Tây du nhập vào đất nước, một phần thành thị bị pha loãng bởi nếp sống mới, văn hóa mới mà tuổi trẻ luôn phấn chấn đón nhận như được cởi trói từ tư tưởng đến văn hóa, giáo dục, tập quán. Chính vì thế mà hình dạng chữ La Tinh cũng dễ được chấp nhận thay thế cổ ngữ, được gọi là quốc ngữ. Những thay đổi nhanh chóng đó, Nho-Thích-Lão cũng bị lùi dần trong bóng tối mà tập quán xã hội đã từng cưu mang; lúc bấy giờ, ông Đồ và áo dài khăn đóng chỉ xuất hiện mỗi khi lễ Đình trong làng, cảnh nhàn vui thú điền viên của Tiên gia Lão giáo cũng rút sâu vào non cao núi thẳm. Phật giáo thì các sư Tăng xuất hiện nơi ma chay của xóm làng. Người dân nơi đô thị ít biết đến những hình thái xa xưa, nếu thỉnh thoảng xuất hiện, thị dân xem đó là nét văn hóa lỗi thời lạc hậu. Do sự thờ ơ của xã hội mới, các chùa ít được tuổi trẻ xuất gia kế thừa làm "điệu - chú tiểu"; các sư phải lập gia thất để duy trì ngôi Tam Bảo; ngoài ma chay đám tiệc, còn phải tự túc kinh tế trên các thửa ruộng làng quê. Do vậy, chư Tăng không còn thời giờ chuyên sâu vào giáo lý và hành trì tu tập; công việc hoằng pháp đã gián đoạn một thời gian khá dài; người dân gọi là Phật tử trên danh nghĩa, không ai biết đến giáo lý và lịch sử nhà Phật. Họ duy trì tín ngưỡng theo tập quán ông bà, họ chỉ biết đạo Phật là tôn giáo đáp ứng cho kẻ quá cố và một tín ngưỡng dự phòng cho kiếp sau.
BỐI CẢNH LỊCH SỬ:
A/ Thời Bắc thuộc
Qua những thời kỳ thịnh suy của Phật giáo Việt Nam gắn liền với vận mệnh dân tộc, Bắc thuộc lần thứ nhất vào 207 TCN đến năm 39, Phật giáo đã cực thịnh vào đầu thế kỷ thứ nhất khi Trung Tâm Luy Lâu có mặt tại Giao Chỉ trước khi Trung Tâm Bành Thành và Lạc Dương xuất hiện:
1. Trong ba trung tâm Phật Giáo đời Hán, trung tâm Luy Lâu là trung tâm có tổ chức tăng đoàn sớm nhất. Trong sách Lý Hoặc Luận viết về những tệ trạng của giới tăng sĩ Giao Châu vào hạ bán thế kỷ thứ hai, Mâu Tử nói: "Sa môn ngày nay có kẻ lại thích uống rượu ngon, có khi có vợ con, biết cất giữ tiền bạc, của quý, lại chuyên môn lừa dối". Như vậy ta biết rằng tăng đoàn Giao Châu thời đó đã khá đông đảo mới có nhiều tệ đoan như vậy. Danh từ "Sa môn ngày nay" mà Mâu Tử dùng không thể để chỉ một số ít tăng sĩ Ấn Ðộ có mặt tại Giao Châu, mà là chỉ số đông tăng sĩ Giao Châu vậy. (1)
*
* *
Sau thời nhà Ngô đến thời nhà Đinh, Việt Nam chính thức có quốc hiệu sau ngàn năm Bắc thuộc là Đại Cồ Việt. Sang thời Lý, quốc hiệu được đổi là Đại Việt.
Trong hơn 400 năm qua các triều đại Tiền Lê, Lý và Trần, Đại Việt đều đánh thắng các cuộc xâm lăng của các triều đại Trung Quốc.
Năm 1400, Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần. Năm 1406, nhà Minh đem quân sang, lấy lý do là để khôi phục nhà Trần, nhưng thực chất đã sáp nhập Việt Nam thành quận huyện của Trung Quốc và cử quan lại người Hán sang cai trị.
Năm 1407, Giản Định vương, con thứ của vua Trần Nghệ Tông xưng làm Giản Định Đế (1407-1409) để nối nghiệp nhà Trần (thành nhà Hậu Trần) và bắt đầu một cuộc khởi nghĩa chống quân Minh, đến năm 1413 thì hoàn toàn thất bại.
Năm 1418, Lê Lợi khởi nghĩa tại Lam Sơn, Thanh Hóa. …
Năm 1427, cuộc khởi nghĩa thành công, kết thúc thời kỳ Bắc thuộc lần thứ tư, và mở đầu một triều đại mới của Việt Nam: nhà Hậu Lê. Theo truyền thuyết, Lê Lợi thắng do nhờ có kiếm thần của Long Quân. (2)
Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi Hoàng đế năm 968 Tây lịch. Thời đại này, Thiền sư Ngô Chân Lưu được phong chức Khuông Việt thái sư năm 971 Tây lịch. Thế là, Phật giáo bắt tay vào việc tham chánh.
Suốt thời Bắc thuộc lần thứ nhất đến lần thứ tư được kết thúc năm 1427, Phật giáo luôn có mặt cùng dân tộc, thời nào cũng có các cao Tăng đóng góp trí tuệ trong văn học, chính trị, đạo đức xã hội... và luôn gần gũi với nhân dân.
Nghĩa là trước và sau Bắc thuộc, các vương triều Đinh Lê Lý Trần, Phật giáo vào thời đại đó vẫn tiếp tục đóng góp cho đất nước và dân tộc, thịnh suy theo giòng suy thịnh chung của đất nước: Pháp Thuận, Khuông Việt, Pháp Loa, Trần Nhân Tông,
Lý Thường Kiệt. Nhà Lê có Đỗ Thuận, nhà Lý có Vạn Hạnh, Lý Thái Tổ, và còn vô số nhân sĩ trí thức uyên thâm Phật giáo luôn có mặt cùng dân tộc.
Mặc dù theo sử liệu, Phật giáo du nhập vào đất nước ta đầu thế kỷ thứ nhất, từ đường biển do các thương thuyền Ấn Độ mang sang, thế nhưng, trong bài diễn văn của HT Thiền sư Thích Thanh Từ kiến thiết Trúc Lâm Tây Thiên, ngài xác định: Tây Thiên là chiếc nôi của Phật giáo Việt Nam, Phật giáo được truyền từ Ấn Độ vào nước ta thời Hùng Vương, khoảng năm 300 TCN, và đoàn hoằng Pháp của vua A-Dục (Asoka) do ngài Sona và Uttara dẫn đầu là những người đầu tiên đem Phật giáo vào nước Văn Lang thời Vua Hùng (tức là lúc Phật Quang truyền nón gậy cho Đồng Tử vào thời Hùng Vương; nếu tính từ lúc Khương Tăng Hội, Mâu Bác truyền vào thì đầu thế kỷ dương lịch).
... Giao Châu tiêu biểu bấy giờ là trung tâm Luy Lâu, là nơi tụ điểm nghỉ chân giao lưu của các thương thuyền. Lịch sử chính thức xác nhận năm 240 trước Tây lịch, Mahoda-con vua A Dục (Asoka) đã đưa Đạo Phật vào Việt Nam. Tư liệu trong Lĩnh Nam Chính Quái cho biết một dữ kiện chứng tỏ sự có mặt của Đạo Phật vào đời Hùng Vương thứ 3 (triều đại thứ 18 Vua Hùng kể từ trước công nguyên 2879- 258). Đó là câu chuyện công chúa Tiên Dung, con gái vua Hùng Vương thứ 3 lấy Đồng Tử. Chuyện kể rằng Đồng Tử và Tiên Dung lập phố xá buôn bán giao thiệp với người nước ngoài. Một hôm Đồng Tử theo một khách buôn ngoại quốc đến Quỳnh Viên và tại đây Đồng Tử đã gặp một nhà sư Ấn Độ ở trong một túp lều.
Nhờ đó mà Đồng Tử và Tiên Dung đã biết đến Đạo Phật. Qua dữ kiện này ta thấy sự hiện diện của Phật Giáo do các tăng sĩ Ấn Độ truyền vào Việt Nam khá lâu trước Tây lịch... (ẢNH HƯỞNG PHẬT GIÁO TRONG ĐỜI SỐNG NGƯỜI VIỆT - Thích Nguyên Tạng).
Việt Nam lúc bấy giờ bị sáp nhập vào phương Bắc, xem là quận Giao Chỉ, một trong những quận đời Hán. Tuy ở cách xa, văn hóa, văn tự và một số mặt trong cuộc sống vẫn bị giao thoa với người Tàu. Một số tập tục thế gian vẫn còn ảnh hưởng Tàu, thì Tôn giáo cũng không tránh khỏi về nghi lễ, trang phục, nếp sống, sinh hoạt...
Trong giáo sử Phật giáo Việt Nam không cho chúng ta biết về pháp phục Tăng lữ Việt Nam đầu tiên khi Phật giáo được du nhập vào Việt Nam, nhưng trong "Lịch sử Phật giáo Việt Nam" của Giáo sư tiến sĩ Lê Mạnh Thát đã từng xác định Thiền sư
Phật Quang truyền giới cho Chữ Đồng Tử và Tiên Dung, trao cho Chữ Đồng Tử chiếc nón lá và cây gậy xem như "pháp ấn".
Nguyên thủy Phật giáo Ấn không có nón lá và gậy, chỉ có y bát, nếu Phật Quang dùng gậy và nón lá làm pháp tín để ấn chứng thì Phật giáo bấy giờ đã ảnh hưởng Tiên gia; và dĩ nhiên pháp phục là y ca sa quấn chứ không mặc áo dài. Nếu Phật Quang mặc áo tràng hay áo nhật thì đó là loại trang phục của Tăng sĩ Việt Nam
hoặc Trung quốc. Và Nếu Phật Quang là thiền sư Việt Nam thì chắc hẳn Phật giáo Việt Nam đã bị ảnh hưởng không nhỏ với sinh hoạt, nghi lễ và pháp phục của Phật giáo Trung quốc lúc bấy giờ, cho dù Phật giáo truyền vào Việt Nam trước Trung quốc gần một thế kỷ. Trong giáo sử cho ta thấy các sư Tăng đều trang phục y áo kiểu Tàu chứ không theo pháp phục Ấn Độ. Trang phục như thế có tự bao giờ?
Pháp Hiển và Huyền Trang cũng không vấn y theo Nam Tông. Các quốc gia Phật giáo Bắc truyền như Tàu, Việt, Nhật, Triều Tiên đều vận áo dài, mỗi quốc gia biến tấu theo một vài tiểu tiết khác, nhưng nhìn chung vẫn là y hậu và áo dài thường nhật. Đặc biệt, Tây Tạng không giống Tàu mà cũng không theo Ấn. Một thời gian dài chư Tăng Việt Nam trang bị pháp phục như thế nào trước khi đem Phật giáo truyền qua Tàu để rồi từ Tàu truyền ngược lại Giao chỉ (V.N) sau đó? Đây là vấn đề mà không thấy các nhà viết sử Phật giáo đặt ra. Riêng Ni giới miền Bắc, chiếc
khăn vấn theo kiểu mỏ quạ (phía Bắc), cũng là biến tấu từ các cụ bà miền Bắc mà một số sắc tộc phía Bắc cũng sử dụng tương tự.
Cho dù thế nào, việc trang phục của tu sĩ Phật giáo Việt Nam cũng mang nét dân tộc thuần túy; ngay cả kinh sách cũng dùng chữ Nho hoặc chữ Nôm mà không sử dụng Sanskrist hoặc Pali (Ngoại trừ các sư Nam Tông, theo sách sử Theravada thì Nam Tông có mặt tại miền Việt Nam từ thế kỷ thứ ba trước công nguyên, nhưng theo Thích Huệ Giáo thì PGNTVN bắt nguồn từ Campuchia ở thập niên 1930, do một bác sĩ chuyên ngành thú y thế danh Lê Văn Giảng làm việc và sinh sống xuất gia tu học tại Campuchia, sau đó khi về nước đã trở thành một vị sư (Hòa Thượng Hộ Tông) theo truyền thống Nam tông và truyền bá rộng rãi PGNT. Có thể xem ngài là người đặt nền móng ban đầu cho PGNTVN hiện hữu và phát triển đến nay, bên cạnh sự nỗ lực của một số Tăng sĩ, cư sĩ Nam tông Việt Nam.) (3). Như vậy Nam Tông có hai phái: Nam Tông Khmer và Nam Tông người kinh.
Cũng từ tập quán thuần Việt và ít nhiều ảnh hưởng Tàu, vì thế kinh tụng bằng chữ Tàu, áo mão y hậu cũng lai Tàu, tập tục cúng sao giải hạn, vàng mã, trai đàn chẩn tế cũng từ Tàu mà có. Trước kia một số vị trang phục y hậu, áo mão thêu thùa gấm vóc như Hoàng bào của vua; và một số tiết tấu nhạc lễ ảnh hưởng nhạc cung đình.
Tuy Bắc thuộc, nhưng Phật giáo vẫn duy trì và phát triển nhờ Phật giáo Trung quốc thịnh hành; Tuy nhiên, Phật giáo Việt Nam cũng bị nhà Minh tịch thu kinh sách, luận sớ, nên PGVN đã bị thất thoát nhiều thư tịch, văn học, sử liệu.
Riêng Thiền Tông, không có nghi lễ rườm rà, không cúng sao giải hạn hay nặng nhiều nghi tế. Nhất là khi Trần Nhân Tông lập Trúc Lâm thiền phái, kết tập ba giòng Thiền chính là Thảo Đường -Vô Ngôn Thông- Tỳ Ni Đa Lưu Chi, sức sống Phật giáo lúc bấy giờ vượt trội hơn là Tịnh độ Tông.
Sau thời gian Phật giáo cực thịnh, Nho giáo bắt đầu ảnh hưởng trong triều chính, chư Tăng rút sâu vào rừng núi tĩnh tu, đất nước trải qua giai đoạn tiêu cực bởi tinh thần hủ Nho, nặng về danh lợi, học hàm phẩm trật; xã hội lại bị đánh mất tinh thần siêu thoát của nhà Phật, mọi cung cầu trong cuộc sống được đo lường bởi danh phận, học sĩ, phẩm trật triều đình qua các giai cấp: Sĩ- Nông - Công -Thương...; chính vì thế mà tiếp theo các triều đại nhà Nguyễn không còn đủ lực Vô Úy gắn kết nhân dân trước sự xâm lăng đô hộ của phương Tây trong thế kỷ XIX.
B/ Thời Pháp Thuộc
Sau thời gian Gia Long và Tây Sơn tranh chấp, đến khi Quang Trung mất, tinh thần binh sĩ và nội tình phân tán nên Nguyễn Ánh đã thừa thắng, một phần nhờ ngoại bang, bắt tay với Tàu và Pháp, tuy chưa chặt chẽ lắm, nhưng cũng có chỗ cho binh sĩ an lòng. Vua Gia Long có thiện cảm hơn do khi ông còn gian truân có nhờ ông Bá Đa Lộc giúp đỡ. Khi chiến tranh kết thúc, các ông Chaigneau, Vannier và Despiau làm quan tại triều, tuy nhiên, năm 1817, chính phủ Pháp phái tới Việt Nam chiếc tàu Cybèle để thăm dò bang giao. Thuyền trưởng là Achille De Kergariou nói rằng vua Louis XVIII sai sang xin thi hành những điều ước do Bá Đa Lộc ký năm 1787 về việc nhường cửa Đà Nẵng và đảo Côn Lôn. Vua Gia Long sai quan ra trả lời rằng những điều ước ấy nước Pháp trước đã không thi hành thì nay bỏ, không nói đến nữa. (Wikipedia).
Đến khi Minh Mạng kế thừa thì tinh thần cải cách tiến bộ hơn, thuê quân Pháp huấn luyện quân đội, giúp cho binh lực và nội chính vững mạnh, vì thế, theo đánh giá đương thời, quân đội nhà Nguyễn cực mạnh so với các nước như Trung Quốc, Thái Lan, Cambuchea. Ngược lại đến thời Tự Đức thì tổ chức suy sụp có lẽ vì tài chánh hạn hẹp, vả lại Tự Đức không theo cách tổ chức của phương Tây mà quay lại Binh Thư yếu lược của Trần Hưng Đạo. Tuy Minh Mạng tiếp thu một số cái hay của Pháp để cải cách, nhưng: Vua Minh Mạng không có cảm tình với người Pháp như thái độ chung của người Á Đông lúc đó, coi người Âu Châu là bọn man di, là quân xâm lược Châu Âu. Trong thời kỳ Minh Mạng nắm quyền, tín đồ Công giáo bị đàn áp quyết liệt và các giáo sĩ nước ngoài đã so sánh ông với hoàng đế Nero của Đế quốc La Mã - một hoàng đế từng tàn sát hàng loạt giáo dân Công giáo. Với những người Pháp đã từng giúp vua Gia Long, Minh Mạng tỏ thái độ lạnh nhạt nên khi Chaigneau trở lại Việt Nam không được trọng dụng nữa. Minh Mạng cho Chaigneau hay rằng không cần phải ký thương ước giữa hai chính phủ, người Việt Nam vẫn đối xử tốt đẹp với người Pháp là đủ, ông chỉ thỏa thuận mua bán với người Pháp nhưng không chấp nhận xây dựng đặt quan hệ ngoại giao chính thức với nước Pháp, quốc thư của Pháp xin cho ông Chaigneau làm Lãnh sự Pháp ở Việt Nam không được nhà vua đếm xỉa đến. Cũng theo đường lối của hai triều Minh Mạng và Thiệu Trị, vua Tự Đức khước từ mọi việc giao thiệp với các nước ngoài, dầu việc giao thiệp chỉ nhằm phục vụ thương mại. Năm 1850 có tàu của nước Mỹ vào cửa Hàn có quốc thư xin thông thương nhưng không được tiếp nhận. (Wikipedia)
Do tính cứng rắn của các đời vua nhà Nguyễn về sau, cấm đạo, bắt bớ trục xuất người Pháp, không chịu canh tân đất nước, loạn lạc dân chúng nổi dậy liên miên, vua nghe theo nhóm cận thần bảo thủ nên đưa đất nước vào chỗ rối ren, bế tắt. Đến khi Tự Đức bắt đầu cho học tiếng nước ngoài thì cũng đã muộn. Triều đình không có một biện pháp nào đối phó với phương Tây, ngược lại chỉ cấm đạo và cấm mua bán quyết liệt hơn trước. Ngoài ra ông cũng không thích cả Công giáo nhân vụ An Phong Công Hồng Bảo mưu phản, tìm cách liên hệ với các giáo sĩ để soán ngôi mà nhà vua cho công bố 2 đạo dụ cấm đoán Công giáo các năm 1848 và 1851, từ 1848-1860, đã có hàng vạn giáo dân bị tàn sát hay lưu đày. (Wikipedia)
Dưới triều Nguyễn, trong các đời vua Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức, tuy Phật giáo ít bị kỳ thị nhưng chủ lực chính trị vẫn nằm trong tay nho gia.
Từ năm 1817 về sau, số đông nho gia cảm thấy có một sự liên kết giữa phong trào truyền đạo Cơ Đốc và sự phát triển của thế lực thực dân, cho nên đã bắt đầu chống đối Cơ Đốc giáo. Sự chống đối này phát triển mạnh từ khi vua Minh Mạng lên ngôi. Phật giáo thời bấy giờ một phần vì không có ảnh hưởng trực tiếp đến chính trị, một phần vì có tinh thần dung hợp không kỳ thị tôn giáo, nên đã không phải là động lực đưa tới những đạo dụ "cấm đạo" của vua Minh Mạng. Chính sách đàn áp kỳ thị Cơ Đốc giáo về phía chống lại chính quyền. Lực lượng Cần Vương mà phần chủ yếu là nho sĩ cũng tiếp tục xô đẩy một số người Công giáo vào thế đối lập. (4)
Chính những lý do đó mà Pháp lấy cớ xâm lăng Việt Nam. Chiến tranh Pháp - Việt nổ ra vào thời nhà Nguyễn 1858-1884. Đồng thời các giám mục Pháp cũng bắt tay với quân Pháp để thôn tính Việt Nam. Một số giáo dân theo Pháp chống lại triều đình, do vậy, quần chúng người Lương cũng đã ngờ vực cộng đồng Ki Tô giáo. Sau đó miền Tây Nam bộ cũng vào tay Pháp. Thời kỳ Pháp thuộc được kể từ 1884-1945. Cũng từ nhà Nguyễn bị đô hộ, chữ Nôm, chữ Nho bị thay bởi chữ La Tinh ngày nay gọi là chữ quốc ngữ. Sau khi bị đô hộ bởi Pháp, đạo Công giáo được tự do phát triển. Nam Định là cái nôi sơ khai khi đạo Công giáo được truyền vào Việt Nam, các giáo xứ Bùi Chu, Phát Diệm lập cứ điểm vừa truyền giáo vừa chống lại triều đình. Một số chùa bị biến thành nhà thờ như Lá Vằng nay là La Vang, nhà thờ lớn Hà Nội vốn là chùa tháp Báo Thiên: Theo một số tài liệu lịch sử như sách của Louvet “La vie de Mgr. Puginier”, tiểu thuyết lịch sử “Bóng nước Hồ Gươm” của Chu Thiên, các tài liệu trong Văn khố Hội Thừa sai Paris (M.E.P.)… thì khu đất này xưa kia là khu đất của Báo Thiên Tự (Chùa tháp Báo Thiên) được xây dựng từ đời Nhà Lý. Đây là một ngôi quốc tự nổi tiếng
của kinh đô Đại Việt trong suốt các triều đại từ Lý-Trần. Đến thời Lê – Nguyễn, đây vẫn là nơi diễn ra các nghi lễ Phật giáo cầu cho quốc thái dân an... (nhà thờ lớn HN-Wikipedia).
Nhà thờ Đức Bà vốn là chùa Khải Tường... Hình như đa phần tỉnh nào cũng có chùa bị sung công làm nhà thờ nếu nơi đó nằm ở vị trí thuận lợi. Vì thế, các sư Tăng rút sâu vào xóm thôn để tồn tại cùng với người dân chân lấm tay bùn, ít có chùa nằm ngay mặt tiền đường phố chợ vào thời đó.
Sau thời gian dài, tu sĩ Phật giáo không cập nhật kiến thức, văn minh Tây phương, cứ mãi ôm ấp chữ Nho, chữ Nôm mà lớp trẻ không thể tiếp thu dễ như chữ quốc ngữ (La Tinh), vì vậy khó tìm người trẻ kế thừa "trụ Như Lai xứ". Các sư chẳng những có gia thất, có con tiếp tục học chữ Nho để tụng đọc kinh điển; không được đi học theo kiến thức thời đại, chỉ biết ma chay đám tiệc và làm ruộng, hầu hết các sư được gọi là Cổ Sơn Môn hay Lục Hòa Tăng, họ đều có vợ con, ăn thịt cá, uống rượu, kiêm luôn cúng đình cúng miễu. Người dân xem tu sĩ đó là một cái nghề để đáp ứng ma chay, xem ngày tháng cưới hỏi, xây cất... được ưu thế là thân cận gần gũi người dân, nhưng cũng vì thế người dân thiếu sự kính trọng hơn các linh mục. Phật giáo tồn tại trong thời Pháp thuộc nhờ gắn kết với tập quán nhân dân, đáp ứng được nhu cầu tâm linh của giới bình dân. Thêm vào lúc Nho gia chiếm địa vị độc tôn mà nhà Nguyễn dùng đó để khôi phục và bảo vệ nhà nước tập quyền chuyên chế theo thuyết vua là Thiên tử, nên Nho gia đã kích dèm xiểm Phật giáo để vua chúa nghe theo. Thời kỳ hậu Lê đến cuối thế kỷ XIX là giai đoạn suy thoái của Phật giáo.
Khi nền văn minh Tây Âu thâm nhập vào xã hội Việt, mọi cơ cấu truyền thống bị đảo lộn; Tình làng nghĩa xóm được đo lường bởi tài sản và địa vị xã hội; Thị dân hóa cuộc sống. Gia Long cũng nặng về Tây phương do ân nghĩa, nên vào thời Tự Đức, Phật giáo bị giới hạn nhiều mặt về xây dựng và phát triển; tách hẳn Phật giáo ra khỏi ảnh hưởng triều chính xưa kia. Từ nhà Nguyễn, Phật giáo suy vi hẳn, không nghe danh tánh một cao Tăng chứng đắc hay một danh Tăng nổi bậc nào.
Một số vị chân tu ẩn thân nơi rừng sâu núi thẳm; Uy tín Phật giáo trong nhân gian cũng nhợt nhạt. Một số tu sĩ ngả sang thần quyền, bùa phép ảnh hưởng của Đạo gia, mê tín dị đoan xâm nhập vào thiền môn. Ngược lại cách thờ phượng, hành lễ của Công giáo mang tính giản dị thanh thoát, nhạc lễ cũng khác hẳn nhạc lễ trống phách ồn ào của Phật giáo. Tin Lành càng đơn giản hơn và mang vẻ trí thức hơn. Hai tổ chức tôn giáo nói trên được chính quyền bảo hộ và giành nhiều đãi ngộ.
Sau đệ nhị thế chiến, trước sự ồ ạt tấn công văn hóa và tôn giáo từ phương Tây, các cao Tăng Phật giáo ở Trung Hoa, Srilanka, Thái ý thức được sự tồn vong của đạo Phật nên các ngài khởi xướng chấn hưng Phật giáo. 1950-1951 đại hội Phật giáo thế giới tổ chức tại Tích Lan đã chọn giáo kỳ ngũ sắc và thành lập nội quy sinh hoạt chung, tôn trọng các tông phái của mỗi quốc gia, Việt Nam có HT Tố Liên dẫn đầu đoàn tham dự, từ đó, PGVN là thành viên thường trực trong hội Phật giáo Liên hữu.
Thập niên 1920, tuy PGVN đang suy thoái, vẫn có những lương đống âm thầm đào tạo Tăng tài như:
Miền Nam có : HT Từ Phong đạo tràng Giác Hải, HT Khánh Hòa, HT Chí Thành, HT Huệ Quang, HT Khánh Anh, HT Tâm Thông, HT Hoằng Nghĩa...
Miền Trung có: HT Tuệ Pháp, HT Thanh Thái, HT Đắc Ân, HT Tâm Tịnh, HT Phước Huệ...
Miền Bắc có: HT Thanh Hanh, HT Phổ Tuệ...
Chủ xướng chấn hưng Phật giáo lúc bấy giờ được khởi xướng ở Ấn Độ bởi cư sĩ David Hewavitarane, người Tích Lan, sau này xuất gia thành đại đức Dharmapala. Công việc đầu tiên của ông là vận động trùng tu lại những Phật tích quan trọng ở Ấn Độ, và tiếp theo là lập hội Mahabodhi Society, xuất bản tạp chí Phật học, thành lập trung tâm Phật học và tu viện Phật giáo. Nhờ có sự khuyến khích của thi sĩ Edwin Arnold người Anh, tác giả The Light Of Asia, và đại tá Henry Steel Olcott, người Hoa Kỳ, Dharmapala đã đạt tới những thành công lớn, nhờ sự có mặt của bác sĩ Ambedkar, hàng triệu người Ấn thuộc giai cấp hạ tiện (intouchables) tại Ấn Độ đã quy y theo Phật giáo, tại Nagpur ngày 14.10.1956, năm trăm ngàn người đã làm lễ quy y trong một lần. (VNPGSL)
Từ chất xúc tác nầy chư tôn đức Việt Nam mạnh dạn bắt tay công cuộc chấn hưng Phật giáo mạnh mẽ, trong đó có sự tiếp tay của các cư sĩ nổi tiếng như bác sĩ Tâm Minh - Lê Đình Thám, và hoằng pháp có Thiều Chửu, Đoàn Trung Còn... Mạnh nhất là miền Trung, nơi đào tạo nhiều danh Tăng cao đức đã chống chọi lại chính sách triệt tiêu Phật giáo của Ngô triều.
C/ Sự Xuất Hiện Đạo Phật Khất Sĩ V.N
Trong gia đoạn chấn hưng Phật giáo, mạnh nhất tại miền Trung, thì Phật giáo miền Nam vẫn chưa được gắn chặc. Do chính quyền bảo hộ của Pháp trấn áp nhiều phong trào yêu nước; một số giáo phái tín ngưỡng được phát triển dưới sự quản lý chặt chẽ về chính trị của nhà nước bấy giờ, nhưng nới lỏng về đạo đức, mê tín hoành hành, vì thế dễ phát sanh tha hóa, nhất là tu sĩ Phật giáo không còn nghiêm minh giới luật, làm cho quần chúng không còn niềm tin tôn giáo như trước đây; do đó một số tin ngưỡng mới ra đời được gọi là tôn giáo nội sinh.
Và đặc biệt, ở Nam Bộ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, do nhiều nguyên nhân về kinh tế, văn hóa, xã hội và tư tưởng đã xuất hiện nhiều đạo mới, hoặc đi ra từ Phật giáo, hoặc đi ra từ tín ngưỡng dân gian, hoặc đi ra từ “Tam giáo” (Phật - Lão - Nho), như: Bửu Sơn Kỳ Hương do Phật thầy Tây An- Đoàn Minh Huyên (1807-1856) sáng lập năm 1849; Tứ Ân Hiếu Nghĩa do bổn sư Ngô Lợi (?-1890) lập năm 1867; Tịnh độ Cư sỹ Phật hội Việt Nam do ông Nguyễn Văn Bồng (1886-1958) sáng lập đầu thế kỷ XX; đạo Minh sư và các nhóm Ngũ chi Minh đạo (Minh sư, Minh Lý, Minh Đường, Minh Thiện, Minh Tân) mở rộng ảnh hưởng vào đầu thế kỷ XX; đạo Cao Đài do các ông Ngô Minh Chiêu (1878-1930), Lê Văn Trung (1875-1934), Phạm Công Tắc (1893-1959),… thành lập năm 1926, Phật giáo Hòa Hảo do đức thầy Huỳnh Phú Sổ (1920-1946) thành lập năm1939,… (5)
*
* *
Khất sĩ 1944 ra đời trong tình hình tín ngưỡng rối rắm trăm bề giữa Đạo và đời, giữa chính trị, xã hội và tín ngưỡng tôn giáo... đã mang một sắc thái đạo Phật đặc biệt tại miền Nam Việt Nam khi đất nước bị chia đôi sau đệ nhị thế chiến.
C.1/ Thân thế gia tộc
Đức Tôn sư Minh Đăng Quang là giáo chủ khai sáng Đạo Phật Khất Sĩ Việt Nam, thế danh là Nguyễn Thành Đạt, tự là Lý Hườn; sinh năm Quý Hợi (1923) tại làng Phú Hậu, Tổng bình Phú, quận Tam Bình, Vĩnh Long, miền Nam Việt Nam. Sanh trưởng trong một gia đình hiền lương đạo đức; Ngài là con út trong gia đình có 5 anh chị em. Riêng Ngài được ngụ thai đến 12 tháng. Mười tháng sau thân mẫu mất, ngài được thân phụ và kế mẫu nuôi dưỡng. Thuở ấu thời, Ngài có nhiều đặc tính khác thường với tuổi cùng lứa, thông minh - tứ oai nghi, nói năng, hành động trang nghiêm điềm đạm. Tuy còn bé, Ngài ham thích đọc sách, nghiên cứu tôn giáo.
Do túc duyên với đạo lý, Ngài nhất quyết ra đi tìm chân lý cho dù thân phụ quyến luyến cản ngăn. Mới 15 tuổi, một thân một bóng vượt biên giới qua Campuchea tầm sư học đạo; qua nhiều thử thách cam go, Ngài được nhà sư Việt lai Miên hài lòng, trao truyền gia sản đạo nghiệp. Nhờ thế, qua 4 năm, Ngài đủ điều kiện sưu tầm học hỏi về giáo lý y bát chân truyền của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
Tuy được đắc pháp chân truyền trở về quê hương hành đạo, như là nghiệp duyên tiền kiếp, Ngài kết hôn cùng cô Kim Huê - công dung ngôn hạnh vẹn toàn, để đáp nghĩa sanh thành với thân phụ lúc tuổi xế chiếu, rồi cũng chẳng bao lâu, người phối ngẫu cũng ra đi theo lẽ vô thường như một bài học đau thương để rèn chí nam nhi xuất trần. Từ đó, ngài ra đi với phương trời vô định. Núi Thất Sơn là nơi trui luyện tâm thức Ngài suốt thời gian chiêm nghiệm nghiên cứu về Phật giáo.
C.2/ Tâm nguyện nối truyền chánh pháp Thích Ca
Trước bối cảnh phức tạp của xã hội và tín ngưỡng bị pha tạp, sau thời gian cầu pháp và ẩn tu, Ngài trở lại thị thành để giáo hóa nhân sinh.
Về hình thức, ngài sử dụng pháp phục quấn theo Nam tông, cũng là nguồn gốc của thời Phật tại thế được Phật giáo nguyên thủy bảo tồn đến nay. Vẫn ăn Ngọ, trì bình khất thực nhưng giữ trường trai, ngủ gốc cây mà trong "Pháp Giáo Truyền Lưu Tứ Y Pháp" lấy từ luật giới nhà Phật, đó là con đường chấn chỉnh nếp tu tập đã bị thời gian làm phai nhạt.
Bài pháp đầu tiên ngài thuyết giảng là "Thuyền Bát Nhã" sau khi ngộ lý vô thường từ sóng nước dập dìu trên biển Hà Tiên, mang tinh thần hợp duyên, vô thường, vô ngã của nhà Phật. Ngài bắt đầu du phương hoằng hóa với Tăng đoàn "tam y nhất" đúng với bài "Nhất bát thiên gia phạn-cô thân vạn lý du", vũ trụ là nhà vạn vật là bạn!
C.3/ Tư tưởng
Quan điểm vũ trụ hình thành của Tổ Minh Đăng Quang trong bộ "chơn lý", tuy giải thích dẫn chứng theo tiến trình khoa học vật lý, từ "Thể của Vũ trụ đến nhân duyên của mỗi quả địa cầu, hình thể địa cầu, ánh sáng của địa cầu... chúng sanh trong vũ trụ... cuối cùng là chân lý vũ trụ" theo trình độ khoa học hiện đại, tóm lại hàm tàng thuyết nhân duyên trong giáo lý "Phật giáo nguyên thủy".
Trong 10 hiện trạng của vũ trụ quan trong bộ "Chân Lý" đã xác định yếu tố cấu thành qua bốn giai đoạn: Thành-trụ-hoại-không với các yếu tố đất-nước-gió-lửa có sinh diệt nhưng vẫn tồn tại dưới nhiều dạng khác nhau, thì với giáo lý nguyên thủy: Phái Nguyên Thủy coi một số pháp (dharmas, thành tố) bị ô uế và hạn định là có thật, và đồng thời cũng tin rằng một số pháp không bị ô uế (vô ô nhiễm) và không bị hạn định là có thật. Theo nhận xét của Nguyên Thủy thì Niết Bàn có nghĩa là một sự thay đổi thực sự của những sự sinh tồn cá biệt, hữu hạn (samkrta dharmas: hữu vi pháp) và ô uế (klésas) thành những pháp vô hạn định (asamskrta) và không ô uế. (6)
Trong sự hình thành và hoại diệt của vũ trụ vạn pháp, "Chơn Lý" đã xác định tính vô thường chi phối bởi nhân quả: chương XV của Vũ trụ quan trong bộ chân lý: "chúng sanh, sanh ra là bởi ấm, do nhân duyên chuyền nầy, cái nầy cái kia sanh cái nọ. Cái có sanh cái có mà thôi, có hiệp có tan..." cũng trong "chơn lý":
Không sắc thân đâu có thọ cảm.
Không thọ cảm đâu có tư tưởng.
Không tư tưởng đâu có hành vi.
Không hành vi đâu có thức tri.
Không thức tri đâu có giác chơn! (7)
Phật giáo Nguyên Thủy đã giải thích duyên khởi như là một tiến trình thời gian ngắn ngũi của những thực thể đích thật mà giữa chúng có một chuỗi tương quan nhân quả.
Tuy nhiên, tổ Minh Đăng Quang không thuần nghiêng về Nguyên Thủy mà ngài dung nạp tư tưởng Phật giáo phát triển (đại thừa) để có một sắc thái trung đạo của Phật giáo Việt Nam, tức là một trong các tôn giáo nội sinh lúc bấy giờ, khi đất nước chuyển mình, dung nạp các trào lưu tân cổ để chấn hưng đạo đức dân tộc.
Trong tư tưởng Phật giáo nguyên thủy mà có cả trong Phật giáo phát triển đều chấp nhận pháp ấn "khổ-không-vô ngã; uẩn-xúc-giới, Tứ Thánh Đế, Bát Chánh Đạo, Duyên Khởi, Thập Nhị Nhân Duyên...; đều chấp nhận con đường tu tập: Giới Định Tuệ."
Luận về Chư Phật, Minh Đăng Quang trong phần Chư Phật của bộ Chơn Lý xác định: "Tất cả chúng sinh là chư Phật", đó là cách xác quyết khác hẳn với tinh thần của Phật giáo nguyên thủy. Cũng như mục Giác Ngộ của bộ Chơn Lý, Ngài nói: ..."Bằng thiếu sự toàn giác của bậc sơ giác, độc giác, hay đại giác, thì nhập định chưa bền lâu, ắt còn phải đi tu thêm hạnh tự giác, giác tha ở trong đời, để cho thành tưu sự giác mãn, tức là tu hạnh Bồ Tát"... (8). Vậy tinh thần Bồ Tát đạo trong bộ Chơn Lý của Tổ Minh Đăng Quang đã nói lên sự dung hóa giữa hai hệ triết giáo của đạo Phật.
Vạn pháp, theo Nguyên Thủy thì "pháp hữu ngã không" nhưng quan điểm về vạn pháp thì: "Thân thọ sanh từ nơi không tướng -như giấc mơ do tượng hình ra -người mơ tâm thức đâu mà -trụ đâu tội phước, đều là thành không.
Pháp lành khởi, vốn xưa là huyễn -nghiệp dữ gây, cũng huyễn mà ra -Mình bọt đậu, gió lồng qua -không căn, không thật, pháp là huyễn thôi.
Bốn vật lớn, mượn làm thân đó -tâm không sanh, nhơn cảnh mà sanh -cảnh không, tâm cũng không thành -Đôi đường tội phước, như hình huyễn thôi.
Thân không thật thấy là thân Phật -tâm bông lông, biết Phật bông lông -thân tâm tánh ấy vốn không -Người ta với Phật cũng đồng như nhau.
Thân chẳng thấy, biết là thân Phật -Nếu biết rồi, thì Phật là không -người khôn biết tội tánh không -thản nhiên chẳng sợ, trong vòng tử sanh.
Tánh chúng sanh thảy thanh tịnh hết -Do không sanh không diệt mà ra -thân tâm là huyễn thôi mà -huyễn là tội phước, hóa là thành không.
Pháp là pháp, vốn xưa không pháp -không pháp mà cũng pháp đó đây -soi ra không pháp buổi nay -pháp nào pháp nấy, nào hay pháp nào. (9)
Phần "ăn chay", Ngài cũng định nghĩa rất rõ: "Ăn chay theo chữ Hán gọi là thực trai, đây có nghĩa là món ăn trong sạch vậy. Ăn chay là trong sạch với miếng ăn, không tham ăn, không vọng ăn, không cố chấp kén chọn món ăn, tâm không nhơ bẩn vì miếng ăn"...(10). Nội dung toàn bài về việc ăn chay, hàm ý tôn trọng luật công bình, không ỷ mạnh hiếp yếu, tôn trọng sự sống của nhau; không vì chữ hiếu mà sát sanh hại vật để cúng hiến cho cha mẹ... ăn chay thể hiền lòng từ bi đối với các sinh vật nhỏ dại hơn ta, bắt buộc người con Phật phải có lòng từ bi trong việc ăn uống mà không viện cớ "tam tịnh nhục" vào thời đại chưa biết canh tác rau cải như hiện nay để phục vụ cho khẩu dục của người tu, còn bị ràng buộc trong vòng nhân quả tội phước sát hại chúng sanh.
Đây là quan điểm của "Phật giáo phát triển" mà không thể có trong tư tưởng "Phật giáo nguyên thủy", cũng tinh thần hòa hợp giữa Phật giáo nguyên thủy và Phật giáo phát triển, Tổ Minh Đăng Quang đã diễn đạt khá nhuần nhuyễn hợp lý nhiều lần để triển khai tinh thần Bồ Tát đạo.
C.4/ Tính đạo đức và luật nghi
Biết rằng đạo Phật đã thể hiện tinh thần từ bi đối với sanh loại, nhưng cụ thể hơn, luật nghi Khất Sĩ trong phần "Tứ y pháp" có dạy:... Không tự lấy để trừ tham - không tự làm để tránh ác. Uống hỏi xin nước, nằm hỏi xin đất, ăn hỏi xin lá trái, ở hỏi xin cốc hang. Không ngắt lá cây, không bẻ trái, phải lượm xin. Ăn quả chừa hột. Đừng bứng gốc (không xin thái quá) không dùng đồ vật về sinh mạng của thú, người hoặc: Và ai không cho kẻ đã hỏi xin, người ấy có tội với công lý, nhưng đừng xin nhiều quá phải mích bụng người. (11)
Trong "Tứ Y Pháp" của luật Khất sĩ cũng tương tự với luật "Phật giáo nguyên thủy": Vật dụng để cho hàng xuất gia dùng gọi là phép nương, có 4:
- Đi khuất thực
- Mặc y bẩn thỉu
- Ngụ dưới bóng cây
- Dùng thuốc ngâm với nước tiểu (nước tiểu bò đen).
Sự mà hàng xuất gia không nên làm có 4:
- Hành dâm
- Trộm cắp
- Giết người
- Khoe pháp bậc cao nhơn
Riêng phần người xuất gia không nên làm thì Phật giáo nguyên thủy chỉ cấm không giết người. Đạo Phật Khất Sĩ đề cập đến cả mọi động vật, đó là tinh thần "Phật Giáo Phát Triển".
Trong bộ luật nghi giữa Nam Tông và Bắc truyền có vài điểm khác biệt, nhưng gốc luật tạng cũng phát xuất từ Nguyên Thủy, qua các triều đại, quốc độ mà chư tổ Bắc truyền triển khai du di có khác để thích hợp với thổ nhưỡng từng khu vực. Phật giáo Khất Sĩ dung hòa giữa hai tông Bắc và Nam truyền để mang sắc thái Phật giáo nội sinh khá đặc sắc, những vẫn giữ tinh thần từ bi cao độ của Bồ Tát hạnh.
C.5/ tôn chỉ hành trì
Phật giáo Khất Sĩ buổi đầu không nặng về cốt tượng, Ngài từng dạy: "Thờ cúng lễ bái cốt tượng không bằng thờ kinh sách học hành, thờ kinh sách không bằng thờ ông thầy dạy đạo cho mình hiện tại đang sống, thờ ông thầy không bằng thờ bản tâm của mình trong sạch". Chính vì thế mà trong các Tịnh xá Khất Sĩ trước 1970, ngoài tượng đức Phật Bổn Sư và tranh hình Tổ, không thờ thêm bất cứ hình cốt nào khác, về sau ảnh hưởng giao hòa với Bắc Tông, đã thờ vong, tượng Quán Âm Bồ Tát, và đọc tụng kinh âm Hán mà trước kia chỉ thuận đọc tụng kinh dịch thuần Việt qua dạng văn vần. (12)
Việc ăn ở ban đầu khi đạo Phật Khất Sĩ ra đời, Tăng đoàn chỉ trú gốc cây không quá hai đêm một chỗ, không nấu nướng cất giữ, không thọ nhận tiền bạc vật báu; và sau khi có trú xứ, chư Tăng chỉ được phép lưu trú không quá 6 tháng một chỗ; và do tình hình hiện nay, Tăng Khất sĩ đã hòa nhập chung với sinh hoạt Giáo hội, việc bổ cử di trú hay cất giữ tiền bạc, ăn ngọ... cũng được du di. Tuy nhiên, Tăng thuộc giáo hội Khất sĩ chính thống vẫn giữ tốt những oai nghi mà một số kẻ lạm dụng hình thức khất sĩ bên ngoài đã không hội đủ yếu tố chân chánh của một sư Tăng Khất Sĩ truyền thống. Đặc biệt một số Tăng Ni Khất Sĩ cũng theo đuổi kịp kiến thức thời đại mà trước 1975 họ chuyên tu hơn là trao dồi học vấn.
Sau khi gia nhập vào một hệ thống Giáo Hội duy nhất sau 1975, chư Tăng Khất Sĩ vẫn được thỉnh giảng các chùa cũng như các giảng sư Bắc tông có mặt trong những buổi giảng tại các tịnh xá Khất Sĩ. Tuy nhiên, hệ phái Khất Sĩ hiện nay chưa chủ động trong việc hoằng pháp công cộng mà phần lớn chỉ thí pháp trong các ngày hội cúng dường trai phạn 2 lần mỗi tháng.
C.6/ kiến trúc và tổ chức giáo hội
Tinh xá là nơi thờ phượng và chỗ cư trú chư Tăng Ni, hình dáng 8 cạnh (bát giác); một lối kiến trúc độc đáo, thoát khỏi lối xây dựng ảnh hưởng Tàu có rồng phụng, thờ phượng rườm rà. Nhìn vào Tịnh xá trông thoáng đãng. Theo quy cách xây dựng xưa kia: "Tịnh xá phải 8m, vuông bốn phía, hình bát giác. Có nhà giảng thuyết pháp, góc vuông 16 thước, bề dài 16 thước..." (luật nghi khất sĩ)
Một giáo hội gồm ba hình loại:
Tiểu giáo hội gồm 20 vị Tăng -Trung giáo hội là 100 vị -đại giáo hội là 500 vị -Một Tăng hay một chúng gồm 4 vị. (13)
Giáo hội Tăng già: luôn luôn đi du hành, chớ không ở một chỗ quá ba tháng.
Khi đi, đi bộ cả Tăng đoàn, để cho được sự học hành khắp xứ, đủ hạng người và quý nhất là sự giải thoát chỗ ở một nơi, để dứt bỏ tham sân si ái dục dễ dàng, vì chính nguyên nhân của sự giải đãi, mất đức và phạm giới là bởi ở một chỗ vậy... (14)
Sư tổ Minh Đăng Quang cũng tỷ mỹ trong tứ oai nghi mà bốn bộ luật (Tỳ ni-sa di-oai nghi-cảnh sách) đã dạy. Bộ chơn lý Luật nghi Khất Sĩ đào tạo một vị Tu sĩ rất hoàn chỉnh mà đến nay, ai còn ở trong Tăng đoàn đều vẫn phải chấp hành. Đây là hình ảnh Tăng đoàn của Phật còn tại thế, giữ và lưu truyền được giáo pháp Thích Ca.Luật nghi khất sĩ diễn âm toàn bộ từ luật tạng PG Phát Triển, dễ hiểu dễ nhớ.
Tóm kết:
Đạo Phật Khất Sĩ là một hình thái khôi phục y bát chân truyền và tu tập sinh hoạt đúng nguyên mẫu giáo đoàn lúc Phật còn tại thế. Bởi vì, sau thời gian gần 3000 năm, giáo pháp Phật lưu truyền theo hai hướng: Bắc và Nam vì thế mới có danh từ Bắc truyền là Đại thừa, ngày nay gọi là Phật giáo Phát Triển. Nam truyền xưa gọi là Tiểu thừa, nay gọi là Nguyên Thủy, do tính truyền thống cố bảo vệ nguyên gốc giáo lý của Phật nên gọi là Nguyên Thủy; do tính bảo thủ mà không thể phát triển nhanh như "Phật Giáo Phát Triển". Tuy nhiên, Phật giáo Phát Triển có ưu thế thích nghi từng thổ nhưỡng, từng quốc độ, dễ hòa nhập, dễ phát triển, nhưng cũng dễ lai tạp, đánh mất tính truyền thống. Giáo lý triển khai rộng vẫn không đánh mất tôn chỉ của đạo Phật, nhưng trong thời nhiễu loạn, "Phật giáo Phát Triển" cũng không tránh khỏi một số tiêu cực theo tiêu cực của xã hội. Qua thời kỳ Bắc thuộc, cao Tăng Thánh đức đã khai triển được giáo lý và nâng cao giá trị tu tập cho bản giáo mà còn giúp đất nước thịnh hưng. Khi Pháp thuộc xâm nhập nền văn hóa xa lạ, xã hội bị xáo trộn và nét văn hóa truyền thống cha ông bị đảo lộn, chư Tăng chưa kịp định hình và chỉnh đốn sinh hoạt, tổ chức thích nghi với trào lưu, một số bậc chân tu đã ẩn non cao núi thẳm, số còn lại ở thị thành phải chật vật bon chen cuộc sống, nên sắc màu Phật giáo bị biến dạng.
Trong tình hình xã hội rối ren, một số tổ chức chống ngoại xâm ra đời, đồng thời cũng xuất hiện nhiều hình thức tín ngưỡng tôn giáo nội sinh kết hợp với chính trị để bảo vệ tổ quốc, trước tình cảnh bất khả kháng đó, Tổ Minh Đăng Quang xuất hiện làm sống lại, tươi nhuận cho một đạo Phật tưởng chừng bị biến dạng song song với trào lưu chấn hưng Phật giáo khắp nơi. Việt Nam đã có một hệ phái kết hợp hài hòa giữa hai truyền thống Nam và Bắc truyền, hay Nguyên Thủy và Phát Triển, từ hình thức đến nội dung, để Phật giáo Việt Nam có bộ mặt mới mẽ hơn, thích hợp với trình độ dân trí và sở thích người dân Nam bộ lúc bấy giờ, bằng giáo lý văn vần gọn nhẹ trong sáng.
Đây là một hệ phái đóng góp vững vàng, không những lãnh vực tôn giáo tín ngưỡng, mà còn là nét văn hóa trong sáng cho dân tộc trong thời kỳ thế kỷ XX, trăm hoa đua nở của các hệ phái tôn giáo, báo hiệu dân tộc sớm hưởng cảnh bình minh của đất nước sau thời gian dài tăm tối bởi ngoại thuộc. Ngay cả hiện nay, hệ Phái Khất Sĩ cũng chen vai thích cánh cùng GHPGVN đóng góp xây dựng xã hội sau khi thống nhất hai miền. Tăng già Khất Sĩ không những là hệ phái chuyên tu mà còn cập nhật kiến thức thời đại cho các Tăng Ni trẻ và năng động với xã hội nhiều mặt mà vẫn giữ được nét đặc thù của chính mình.
MINH MẪN
14/12/2013
(Bài tham luận của cư sĩ Minh Mẫn)
Tài liệu tham khảo:
(1) VNPGSL-Nguyễn Lang
(2) LSPGNT
(3) (V.NP.G Sử Luận chương 26)
(4) (VNPGSL Nguyễn Lang)
(5) GLPGNT
(6) Vũ trụ quan, Chơn lý
(7) giác ngộ-chơn lý
(8) chơn lý-luật nghi khất sĩ
(9) ăn chay-luật nghi K
(10) Luật nghi KS
(11) 4 phép nương PGNGT
(12) LNKS
(13) GHTGKSVN
(14) GHTGKSVN