Có những tấm ảnh đã xoay vần cả thế giới, làm chuyển hướng bánh xe của lịch sử. Có tác động hơn nghìn lời nói hay có sức sống tới cả chục năm, những bức ảnh đặc biệt đó đã không chỉ ghi lại những thời khắc quan trọng của lịch sử mà còn góp phần làm thay đổi cả thế giới.
Vietnam War- chiến tranh Việt Nam- là cụm từ mà báo chí nước ngoài thường dùng để nói về cuộc chiến mà nước Mỹ đã gây ra trên dải đất hình chữ S suốt gần 3 thập kỷ. Góp phần phản ánh về cuộc chiến đầy tai tiếng trong thế kỷ 20 này của chính quyền Mỹ, góp phần làm cho thế giới thêm hiểu và ủng hộ đối với công cuộc giải phóng miền Nam, góp phần làm thay đổi cục diện chiến tranh, là rất nhiều những gương mặt nhà báo quốc tế.
Nhiều người trong số họ đã có mặt, đã trực tiếp có mặt tác nghiệp tại chiến trường đầy bom đạn này, có người thậm chí đã đổ máu, đã mất đi mạng sống của mình nhưng đổi lại, không ít người đã được cả thế giới biết đến nhờ những bài viết, bức ảnh để đời về cuộc chiến nổi tiếng này. Nhân kỷ niệm 35 năm Chiến thắng 30/4 (30/4/1975- 30/4/2010), NB& CL xin giới thiệu một số gương mặt nhà báo, phóng viên ảnh từng lăn lộn ở chiến trường miền Nam cho đến tháng 4-1974 cùng những tác phẩm nổi tiếng của họ về chiến tranh Việt Nam.
Từ nhà hóa học đến phóng viên chiến trường lừng danh
Ít người biết rằng Malcolm W. Browne- một trong những phóng viên chiến trường nổi tiếng bậc nhất nước Mỹ, người đã dành cho mình hàng loạt giải thưởng báo chí danh giá bậc nhất, người mà cuộc đời làm báo suốt mấy thập kỷ đã bôn ba qua hầu hết những chiến trường ác liệt nhất thế kỷ 20- lại bước vào nghề báo từ một xuất phát điểm tưởng chừng rất xa với nghiệp viết lách: nghiên cứu khoa học, chuyên ngành hóa học.
Malcolm W. Browne sinh năm 1963 tại thành phố New York trong một gia đình mà ba mẹ đều là những người tri thức và có tư tưởng phản chiến rõ ràng. Malcolm W. Browne thi đỗ vào trường ĐH Quaker tại Pennasylvania, khoa hóa. Nhiều khi, nghề chọn người chứ không phải là người chọn nghề. Trường hợp của Browne là như vậy. Tham gia quân dịch vào cuối cuộc Chiến tranh Triều Tiên, nhà hóa học trẻ bất ngờ được giao làm việc cho tờ báo Stars and Stripes, bản dành cho khu vực Thái Bình Dương.
2 năm làm cho Stars and Stripes, quãng thời gian ngắn ngủi nhưng cũng đủ giúp cho người ngoại đạo Malcolm W. Browne hiểu thêm ít nhiều về nghề báo. Hơn tất cả là quãng thời gian 2 năm ấy đã khiến ông kịp ngấm vào trong máu, niềm đam mê với con chữ, với chiếc máy ảnh. Niềm đam mê đã đủ lớn, tới mức, gạt lại sau lưng những mong mỏi của mẹ cha, những kiến thức khoa học gặt hái sau những năm ngồi trên giảng đường, Malcolm W. Browne quyết định chính thức bước chân vào nghề báo. Để nâng cao kiến thức báo chí, tạo thêm kinh nghiệm nghề nghiệp cho mình, Browne chọn một tờ báo hạng trung tại Middletown mang tên Times Herald-Record như một nơi khởi nghiệp chính thức. May mắn cho Browne, không lâu sau đó, ông được hãng thông tấn Mỹ Associated Press- tên tuổi hàng đầu trong làng truyền thông Mỹ và quốc tế- nhận diện tài năng và mời về làm việc cho hãng.
Không chỉ thế, ông còn được lãnh đạo AP tín nhiệm phân công làm phóng viên đặc phái tại Baltimore từ năm 1959 đến năm 1961 và sau đó làm trưởng đại diện ở Đông Dương. Chính vị trí này đã là cầu nối đưa Malcolm W. Browne đến với Việt Nam khi địa bàn tác nghiệp chủ đạo của ông là Sài Gòn.
Có thể coi mảnh đất Sài Gòn là nơi níu chân Browne lâu nhất (từ năm 1961-1968 trên tư cách là một trong những nhà báo đầu tiên thường trú đưa tin về Chiến tranh Việt Nam) và mang lại nhiều vinh quang nhất trong nghiệp báo của Browne. Nói vậy, bởi chính cuộc chiến tranh Việt Nam, chính mảnh đất Sài Gòn những năm lửa đạn đã là nguồn tư liệu vô giá để ông có cho riêng mình nhiều tác phẩm báo chí để đời và mang đậm giá trị lịch sử. Nổi bật trong số đó là Saigon's Finale đăng độc quyền trên nhật báo Mỹ The New York Times tháng 5/1964, mô tả, phân tích kỹ lưỡng rằng viết về quân đội Mỹ đã thua trận tại chiến trường Việt Nam như thế nào. Bài báo sau khi được xuất bản đã được BGK giải thưởng Pulitzer đầy uy tín chọn làm bài báo quốc tế hay nhất năm 1964. Tác phẩm báo chí nổi tiếng không kém của Malcolm W. Browne là bức ảnh chụp tại Sài Gòn ngày 11/6/1963 ghi lại giây phút Hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu để phản đối chế độc tài, đàn áp Phật giáo của Ngô Đình Diệm. Bức ảnh khi được AP tung ra ngay lập tức gây chấn động trong trái tim những người yêu chuộng hòa bình trên khắp thế giới và được World Press Photo chọn trao giải Bức ảnh báo chí xuất sắc nhất thế giới năm 1963. Không chỉ có thế, sau này, bức ảnh lịch sử này còn được bình chọn là một trong không nhiều những bức ảnh có khả năng làm thay đổi lịch sử cả thế giới.
Năm 1968, Browne chuyển về Mỹ, chuyển sang làm việc cho nhật báo The New York Times và đến năm 1972 là đại diện của The New York Times ở khu vực Nam Mỹ. Với những kiến thức khoa học sẵn có, năm 1977, Browne chuyển sang cộng tác cho tạp chí Discover, rồi trở lại viết cho Times năm 1985. Năm 1991, một lần nữa ông lại làm phóng viên chiến trường ở Iraq trong Chiến tranh Vùng Vịnh 1991...
Chuyện về bức ảnh một phần ba mươi giây lịch sử
Hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu tại Sài Gòn ngày 11/6/1963, một trong những bức ảnh báo chí xuất sắc nhất thế giới.
Có những tấm ảnh đã xoay vần cả thế giới, làm chuyển hướng bánh xe của lịch sử. Có tác động hơn nghìn lời nói hay có sức sống tới cả chục năm, những bức ảnh đặc biệt đó đã không chỉ ghi lại những thời khắc quan trọng của lịch sử mà còn góp phần làm thay đổi cả thế giới. Bức ảnh mà ký giả kiêm nhiếp ảnh gia Malcolm W. Browne ghi lại giây phút Hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu ngày 11/6/1963 để phản đối chế độ độc tài, đàn áp Phật giáo của Ngô Đình Diệm là một trong những bức ảnh như thế.
Theo nhiều tài liệu lịch sử, năm 1963, phong trào đấu tranh của Tăng Ni Phật tử chống chính sách phân biệt đối xử tôn giáo hầu như đã lên đến cao trào. Vào mùa Phật Đản năm ấy, lệnh cấm treo cờ Phật giáo của Ngô Đình Diệm đã gây nên làn sóng bất bình trong giới Tăng Ni Phật tử. Sự đàn áp và bắt bớ Tăng Ni Phật tử của chế độ Ngô Đình Diệm diễn ra liên tục từ Huế vào đến Sài Gòn càng làm cho làn sóng biểu tình phản đối dấy lên mạnh mẽ hơn bao giờ. Sự việc lên đến đỉnh điểm khi ngày 11-6- 1963, tại ngã tư Phan Đình Phùng - Lê Văn Duyệt (nay là Nguyễn Đình Chiểu - Cách Mạng Tháng 8), Hòa thượng Thích Quảng Đức đã tự thiêu giữa đường phố Sài Gòn trước sự chứng kiến của hàng trăm quần chúng và Phật tử để phản đối chính quyền Diệm. Một sự kiện có một không ai. May mắn được chứng kiến giây phút lịch sử này, Malcolm W. Browne đã ghi lại trọn vẹn vào ống kính của mình hình ảnh một hoà thượng trong ngọn lửa bốc cao vẫn ngồi kiết già im lặng tay chắp trước ngực. Bức ảnh ngay sau khi được AP phát đi đã gây một ấn tượng rất mạnh, gây xúc động lớn cho dư luận yêu chuộng hòa bình trong nước và trên thế giới.
Nói về cảm xúc của mình về bức ảnh, về giây phút lịch sử này và cả hoàn cảnh ra đời của tác phẩm đáng giá này, trong một hồi ức của mình, Malcolm W. Browne viết: Đêm trước khi biến cố trọng đại này xảy đến một vị Hòa thượng đã gọi điện cho tôi, bảo rằng 7h sáng ngày mai, tức ngày 11/6, hãy có mặt tại địa điểm ấy, sẽ có một việc, rất quan trọng, rất đặc biệt sẽ diễn ra. Ngoài tôi, vị Hòa thượng đó còn gửi tin nhắn tương tự tới gần một tá phóng viên Mỹ đang tác nghiệp tại Sài Gòn lúc nó, nhưng dường như chẳng mấy ai quan tâm. Riêng tôi thì không. Đó có lẽ là may mắn mà lịch sử đã dành cho cá nhân một người làm báo chiến trường như tôi. Tôi đã trở thành phóng viên phương Tây duy nhất có mặt tại ngã tư Phan Đình Phùng - Lê Văn Duyệt vào giờ phút ấy. Tôi nghĩ, tôi đã chụp tới 6, không, 8 cuộn phim loại 35mm.
Sau này có người hỏi tôi rằng trước cảnh tượng ấy tôi sợ không, nhất là khi tôi được báo trước rằng một sự việc như thế sẽ xảy ra, liệu có phút giây nào tôi nghĩ rằng có lẽ tôi sẽ góp phần ngăn cản cái chết ấy (một cái chết mà sau này có ý kiến cho rằng là khá ghê rợn) đừng xảy ra? Nỗi sợ trong tôi là có thật, nhưng chỉ khi tôi trở về căn phòng làm việc của mình, ngồi trong phòng tráng phim, nhìn lại những gì vừa diễn ra.
Một ngày sau khi AP phát đi bức ảnh của tôi Tổng thống Kennedy bừng bừng tức giận cho gọi Henry Cabot Lodge, người chuẩn bị rời khỏi Sài Gòn trên cương vị Đại sứ Mỹ và tuyên bố: Những chuyện đại loại như thế này phải chấm dứt (“This sort of thing has got to stop”). Và, giây phút đó, lời nói đó, chính là thời khắc bắt đầu cho việc nước Mỹ chấm dứt sự ủng hộ của mình với chính quyền Ngô Đình Diệm.
Hồng Sâm
(Nguồn: congluan.vn