Sáng nay, vào lúc 7h00, ngày 10/05/2012 (nhằm ngày 20/04 ÂL), tại tượng đài Bồ tát Thích Quảng Đức (Quận 3, Tp. Hồ Chí Minh), Chư tôn đức trong Ban Trị Sự Thành phố gồm có HT. Thích Trí Quảng – Phó chủ tịch HĐTS kiêm Trưởng ban Phật giáo Quốc tế, HT. Thích Viên Giác – thành viên Hội đồng chứng minh, HT. Thích Tịnh Hạnh - Ủy viên HĐTS, phó Ban Trị sự Thành phố; HT. Thích Thiện Nhơn; HT. Thích Thiện Tánh cùng Chư tôn đức Tăng Ni trong Ban Đại Diện Phật giáo quận 3 đã thành kính dâng nén tâm hương lên trước tượng đài của Bồ tát Thích Quảng Đức.
Sau đó, vào lúc 8h30, tại văn phòng 2 TƯGH cũng đã long trọng tổ chức lễ tưởng niệm Bồ tát Thích Quảng Đức vị pháp thiêu thân lần thứ 49 hiệp cùng chư Thánh tử đạo.
Quang lâm chứng minh cho buổi lễ có dự hiện diện của HT. Thích Đức Nghiệp – Phó thư ký HĐCM, HT. Thích Hiển Tu – Thành viên HĐCM, HT. Thích Trí Quảng – Phó chủ tịch HĐTS kiêm trưởng ban Phật giáo Quốc tế hiệp cùng chư Tôn đức giáo phẩm trong HĐCM, trong Ban trị sự và Ban Đại diện Phật giáo của các quận huyện trong Thành phố. Ngoài ra còn có sự tham dự của một số các cơ quan ban ngành của nhà nước cũng cùng tham dự buổi lễ này.
Bồ tát Thích Quảng Đức thế danh Lâm Văn Tức, sinh năm 1897, tại làng Hội Khánh, quận Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa, nơi nổi tiếng là nhiều gió, nên gọi là xứ Tụ Phong (Tu Bông).Song thân của Ngài là cụ Lâm Hữu Ứng và bà Nguyễn Thị Nương. Khi lên 7 tuổi, Ngài được Hòa thượng Thích Hoàng Thâm (là cậu ruột) nhận Ngài làm con nuôi, đổi tên là Nguyễn Văn Khiết.
Năm 15 tuổi, Ngài thọ Sa di, 20 tuổi thọ Tỳ kheo và Bồ tát giới, pháp danh Thị Thủy, pháp tự là Hành Pháp, pháp hiệu Thích Quảng Đức.
Sau 20 năm hành đạo ở miền Nam và Nam Vang, Ngài đã khai sơn và trùng tu 17 cảnh chùa. Tổng cộng, Ngài đã có công xây dựng và trùng tu tất cả là 31 ngôi chùa. Ngôi chùa cuối cùng nơi Ngài trụ trì là chùa Quán Thế Âm, số 68 Nguyễn Huệ (Phú Nhuận), nay đổi tên đường là số 90 đường Thích Quảng Đức (Phú Nhuận). Trước khi Ngài về Trụ trì chùa Quán Thế Âm, Hòa thượng đã có thời gian trụ trì chùa Long Vĩnh, quận 3, Tp. Hồ Chí Minh, nên người ta còn quen gọi Ngài là Hòa thượng Long Vĩnh và Ngài còn lấy đạo hiệu là Thích Giác Tánh.
Ngày 20 tháng 4 nhuần năm Quý Mão (11/6/1963), trong cuộc diễn hành trên một ngàn vị Hòa thượng, Thượng tọa, Đại đức Tăng, Ni để tranh thủ chính sách bình đẳng tôn giáo và sự tôn trọng lá cờ Phật giáo, cùng sự thực thi năm nguyện vọng chơn chánh của Phật giáo, Ngài thấu nhận “Chính pháp là ngọn đuốc thần, soi sáng thế nhân, còn thân Ngài vẫn chỉ là giả tạm” nên Ngài quyết định thực hành hạnh nguyện tự thiêu thân, cúng dường Phật pháp, và cũng để chứng tỏ những nguyện vọng chính đáng của Phật giáo, đồng thời cũng để giải tỏa cho ba ngôi chùa ở Huế, lúc ấy đang bị vây khốn. Chính vì tâm nguyện ấy, nên Ngài tự tẩm xăng, ướt mấy lớp cà sa. Khi đến giữa ngã tư đường Phan Đình Phùng và Lê Văn Duyệt Sài Gòn (nay là đường Cách mạng Tháng 8 và Nguyễn Đình Chiểu, quận 3, Tp. Hồ Chí Minh), từ trên xe Ngài ung dung bước xuống, ngồi kiết già và tự tay quẹt châm lửa vào người. Ngọn lửa bốc cao phủ kín thân mình, Ngài vẫn an nhiên tịnh tọa, lưng thẳng như tượng đồng. Gần 15 phút sau lửa sắp tàn, Ngài gật đầu ba lần như cúi chào tạm biệt, rồi ngã nằm ngửa, trên tay còn kiết ấn Cam lộ. Đặc biệt, Ngài vẫn còn lưu lại cho hậu thế một quả tim bất diệt, quả tim của một vị Bồ tát đã hy sinh cho sự trường tồn của Phật giáo.
Tuy Bồ tát đã viên tịch, nhưng ngọn lửa Đại hùng, Đại lực, Đại Từ bi của Ngài vẫn còn sáng và sáng chói mãi muôn đời trong lòng người Phật tử cùng nhân loại khắp năm châu.
Tin ảnh: Quảng Huy