Hai năm liền thi rớt tú tài toàn phần, Tới đã hết điều kiện hoãn dịch vì lý do học vấn nên bị động viên. Không muốn đi lính, Tới về quê vô chùa Pháp Quang “ẩn dương nương Phật” với pháp danh Huệ Trí. Chùa nằm lọt thỏm giữa khu vườn rộng lớn rậm rạp, thanh vắng, u tịch rất thích hợp cho việc tu hành. Sư trụ trì đã ngoài sáu mươi, đi tu từ 5-6 tuổi, pháp danh Huệ Tâm, pháp hiệu “Sống Chiều”. Theo bổn đạo thì sở dĩ có pháp hiệu đó là do sư có thói quen ăn trái cây trong các bữa sáng, bữa trưa đến chiều mới ăn cơm chay. Thật ra không phải vậy. Hồi chín năm chống Pháp, sư là chủ tịch hội Phật giáo cứu quốc huyện trong mặt trận Việt Minh. Để tránh sự dòm ngó, săn đuổi của bọn chó săn tay sai thực dân, ban ngày sư dấu mình trong chiếc áo cà sa, đến chiều tối mới bắt đầu hoạt động.
Lúc bấy giờ cách mạng rất cần kim loai để chế tạo vũ khí, sư tình nguyện hiến chiếc đại hồng chung của chùa. Để tránh tiếng thị phi của bổn đạo và nhất là không để làng lính biết được làm khó dễ, sư đã dàn cảnh một vụ trộm rất hoàn hảo, y như thật. Khoảng nửa đêm, sư âm thầm mở cửa chánh điện cho một tốp đàn ông thanh niên vào chuyển cái chuông đi rồi cứ để nguyên hiện trường như vậy vào phòng ngủ như thường. Bốn giờ sáng, một vị tăng thức dậy công phu mới phát hiện mất chuông, đến đập cửa phòng sư báo cho sư hay. Sư giả vờ hốt hoảng, hối đệ tử xem kỹ lại coi còn mất gì nữa không. Cả chùa náo động. Có người đề nghị chia nhau đi tìm vì cái chuông nặng quá “bọn trộm” chưa thể lưu đi xa được. Sư không cho với lý do rất nguy hiểm và kêu đệ tử bỏ đi, xuống nhà trù lấy cái chuông nhỏ lên thay. Việc kẻ trộm lấy cắp đại hồng chung nhanh chóng được lan truyền rộng rãi, bổn đạo và phật tử đều tin là thật.
Tính cả sư trụ trì cùng tăng sĩ, ni cô và người làm công quả, chùa có trên hai mươi người. Ngoài việc tu tập, lao động sản xuất tự lực cánh sinh là tôn chỉ của chùa. Sư phân công người nào việc nấy nên cuộc sống và sinh hoạt hàng ngày rất trật tự, nề nếp. Không biết thấy Tới có đặc điểm gì mà không lâu sau ngày Tới qui y thọ giới, sư trụ trì lại chọn anh làm thị giả cho sư. Làm thị giả có nhiều ưu tiên hơn tăng chúng, ít bị ràng buộc bởi nội qui, ít làm công tác Phật sự. Ngoài việc lo các bữa ăn, sinh hoạt hàng ngày và chuẩn bị các khóa lễ nhật tụng cho sư trụ trì, thời gian còn lại Tới chuyên tâm tu hành, học kinh luật luận hoặc nghe sư giảng dạy việc đạo việc đời.
Một buổi xế trưa, Tới mang kinh ra gốc mận sau nhà trù ngồi học cho mát. Bỗng! Từ hướng cầu ao vang lên một tiếng “xộn” khá to làm như có ai bưng thau nước đầy hắt xuống vậy. Tới nghĩ chắc một huynh đệ hay một ni cô nào đó làm nên vẫn lầm thầm học kinh. Nhưng, Tới lại nghe lòng bất an, nóng nảy bồn chồn, bèn gấp quyển kinh lại đứng lên ngó nhóng về phía cầu ao. Tới giật mình!. Từ dưới ao, Hương ướt loi ngoi như con chuột lột, cố leo lên bờ. Tới chạy lại, Hương cất giọng run run:.
-Huynh ơi! Tiếp em với.
Tới nắm hai tay Hương kéo lên bờ. Cô ngồi xuống vén ống quần lên xem, nơi ống quyển, một vết thương hình mỏ vịt khá to, miếng da bị đứt co rúm lên bày thịt trắng hếu trông phát khiếp. Hương kêu lên thất thần “Trí ơi…” rồi ngất xỉu. Tới lính quính bồng Hương chạy vào nhà trù hối các ni cô sơ cứu, băng bó tạm, thay quần áo cho Hương rồi cho gia đình cô hay đưa cô đi bệnh viện. Nguyên do là sau khi cùng các ni cô lo xong bữa chiều, Hương ra cầu ao rửa tay, bị trợt chân, ống quyển va vào cây đà cầu bằng sắt ấp chiến lược đã mục mới ra nông nỗi.
Nhà Hương cách chùa khoảng trăm thước. Ba Hương là người tâm đạo, rất quí trọng sư trụ trì, thường sai cô mang trà cùng bánh trái đến biếu sư. Hương cũng hay đến chùa học giáo lý và làm công quả. Hương trạc tuổi Tới, thích mặc áo bà ba trắng, tóc xõa ngang vai, vừa có vẻ đẹp mặn mà của một thôn nữ vừa phảng phất nét duyên dáng của một nữ sinh rớt tú tài một. Nhờ làm thị giả nên Tới thường gặp gỡ, trò chuyện với Hương khá tâm đắc. Lúc mới quen, Hương gọi Tới bằng “thầy” và xưng “con”. Vị tăng trẻ tuổi, đẹp trai ái ngại nói:
-Tôi chắc không lớn hơn Hương bao nhiêu, hơn nữa, tôi mới thọ giới sa di nên Hương cứ gọi tôi bằng huynh hay bằng pháp danh cũng được chớ gọi bằng thầy xưng con nghe sao kỳ quá!.
Hương lặng thinh cúi đầu bẽn lẽn.
Sau sự cố đó, Tới có dịp gặp gỡ và gần gũi Hương nhiều hơn. Một là do sư trụ trì sai đi thăm cô, hai là…giả đò mua khế bán chanh do tiếng gọi thiết tha của Hương hôm nọ thúc giục. Dù nó xuất phát từ sự sợ hãi, hoảng hốt nhưng đó là biểu hiện của sự chuyển biến từ xúc cảm nhất thời sang tình cảm ổn định. Nói theo nhà Phật thì đó là sự phát khởi hiện hành của chủng tử tình yêu đã được huân tập vào tạng thức của Hương.
Hôm Tới nhờ Hương lấy dùm chiếc áo mới may, cầm chiếc áo trao cho Tới, cô hỏi:
-Huynh đã chọn màu áo nầy cho đời huynh?.
Tới chống chế :
-Chỉ vì hoàn cảnh thôi, Hương à.
Hương cười nhẹ :
-Huynh nói vậy chớ Hương thấy hình như huynh đã bằng lòng với hiện tại?.
Tới giật mình trước nhận xét sâu sắc của Hương. Phải! Hương nói đúng! Mục đích đi tu của mình là trốn quân dịch nhưng đôi khi mình thấy như định mệnh đã an bày. Hơn nữa, sống trong môi trường trang nghiêm thanh tịnh, trong tình thương yêu tương trợ của tăng thân, mắt chỉ thấy chư Phật và Bồ tát, tai chỉ nghe kinh kệ mõ chuông, kinh tạng đã thâm nhập vào tâm hồn mình làm cho trần cấu từ từ lắng đọng, thanh khiết, trong veo như lu nước được lóng phèn. Nếu…
Tới không dám nghĩ tiếp mà nhìn thẳng vào Hương. Cô cũng nhìn lại Tới. Bốn mắt chạm nhau bật ra bốn tia chớp sáng lòa chiếu thẳng đến tận cùng tầng sâu tâm thức khiến cho tình yêu từ lâu đã ngủ say trong ấy vươn mình thức dậy. Đứng trên lập trường tôn giáo thì đây là sự phạm giới nghiêm trọng nhưng đứng trên góc độ xã hôi thì là một tình yêu đẹp từ thể xác đến tâm hồn.
Đa số tăng sĩ trong chùa là thanh niên trốn quân dịch và lính tráng đào rã ngũ. Đã có vài cuộc vây ráp bắt bớ của làng lính nhưng vấp phải sự kháng cự quyết liệt của sư trụ trì. Sư sai các đệ tử bó rơm thành từng bó, chất quanh chùa, nếu lính tráng tràn vào bắt bớ thì đốt chùa, tử đạo. Bọn làng lính hậm hực rút lui.
Cách chùa khoảng năm trăm thước có một cái đồn ngoài vàm kinh ông Bang. Năm Ru-lô -trưởng đồn- chưa được ba mươi tuổi mà nổi tiếng gian ác. Hắn đã gieo rắc không biết bao nhiêu kinh hoàng cho người dân quanh vùng. Ai muốn yên phải lo tiền cho hắn, bằng không hắn hạch sách đủ điều kể cả khủng bố tinh thần. Đối với con gái hoặc phụ nữ góa chồng, nếu hắn chấm ai thì trước sau gì hắn cũng dùng bạo lực cưỡng hiếp, trong số đó có vợ những cán bộ chiến sĩ cách mạng hy sinh. Để bảo vệ các chị, sư trụ trì kêu họ vào chùa làm công quả và ăn ngủ ở đó luôn.
Nhân dịp sư trụ trì đi Sài Gòn, Năm Ru-lô bất ngờ dẫn lính đột nhập chùa bắt Tới và bốn tăng sinh khác đưa về giam ở chi khu Mỹ Thiện. Gia đình của bốn tăng sinh lo tiền cho họ ra tù tiếp tục tu hành, gia đình Tới cũng làm như vậy nhưng sư trụ trì không chịu, bảo để sư lo. Trước kia, Tới bị gọi nhập ngũ khóa sĩ quan Thủ Đức nhưng Tới không chấp hành. Theo quân luật thì Tới phạm tội bất phục tùng, bị phạt làm binh sĩ chứ không được làm sĩ quan. Sư trụ trì bèn nhờ các đệ tử ở quân khu 4 can thiệp Tới mới được đưa đi học sĩ quan. Sau khi ra trường sư lại lo cho Tới về làm việc tại ban 3 (ban hành quân) chi khu Mỹ Thiện. Thời gian sau, Tới dùng uy tín của mình đưa Bé Tám-em trai Hương-vào làm lính kiểng trong đồn ông Bang, đệ tử Năm Ru-lô. Tất cả đều do sư trụ trì sắp đặt. Cả hai đều làm nội gián, có nhiệm vụ cung cấp tin tức và tình hình của địch cho cách mạng.
Đặc biệt, đêm giao thừa tết Giáp Dần, Bé Tám châm hai bình trà quạu được bỏ thuốc mê vào, mang bánh kẹo, thèo lèo, hột dưa cho cả bọn lính trong đồn ăn uống chờ đón giao thừa. Chừng nửa giờ sau bọn lính thấm thuốc, ngáp dài và lăn ra ngủ say như chết. Bé Tám lập tức khống chế tên nhân dân tự vệ đang gác, tước vũ khí, trói tất cả lại rồi bắn ba tiếng súng báo động. Từ chùa, một tốp du kích rầm rập chạy vào đồn tiêu diệt Năm Ru-lô, bắt số còn lại làm tù binh, tịch thu toàn bộ vũ khí đạn dược, quân trang quân dụng. Trước khi rút lui, du kích còn phóng hỏa đốt đồn thành tro bụi, đồn bị diệt không tốn một viên đan.
Sau ngày đất nước hòa bình thống nhất, hòa thượng Huệ Tâm được bầu làm ủy viên Ủy Ban Mặt Trận Tổ Quốc huyện Mỹ Thiện. Một hôm, Tới vui miệng hỏi sư:
-Sao trước kia thầy không cho con tiếp tục tu hành mà bắt con đi lính?
Sư mỉm cười đôn hậu:
-Con có hai hột giống, hột thứ nhứt con gieo trên mảnh đất cằn cỗi bạc màu, hột thứ hai con gieo trên mảnh đất phì nhiêu màu mỡ. Cả hai đều có đầy đủ nước tưới và phân bón nhưng theo con thì hột giống nào nẩy mầm, đâm chồi trổ lộc, ra hoa đậu trái tốt hơn?
Nhìn ánh mắt trong sáng dịu hiền, giọng nói trầm ấm cùng ý chí mạnh mẽ và thiên tính cao vời vợi của sư, Tới vô cùng cảm động và khâm phục. Sư đã chiếu kiến và khai phóng tất cả năng lực nội tai của Tới, kéo Tới về cuộc sống thực, con người thực và thấu triệt được ý nghĩa tối hậu của cuộc sống và của một kiếp người. Tới thường nói với bạn bè thân thích “Sanh mình ra là cha mẹ, dạy mình nên người là Hòa thượng Huệ Tâm, nếu lúc đó không có thầy, không biết cuộc đời mình rồi sẽ ra sao”. Để tri ân người thầy quá cố, Tới thỉnh di ảnh sư Huệ Tâm về thờ chung với ông bà tổ tiên và luôn luôn khói nhang thành kính./
Trương Hoàng Minh