So với các vị Bồ tát khác, Quán Thế Âm là vị Bồ tát được nhiều người biết đến, tôn thờ và sùng bái nhất. Ảnh tượng phổ biến của ngài hiện nay là một phụ nữ mặc toàn đồ trắng, ngồi hoặc đứng trên tòa sen, tay cầm bình thanh tịnh, tay cầm nhành dương liễu. Nguyên nhân của sự tôn thờ, sùng bái đó một phần do người ta đã sớm đưa hình ảnh của ngài vào các tác phẩm văn học nghệ thuật như “Quan Âm Diệu Thiện”, “Quan Âm Thị Kính” và nổi tiếng nhất là “Tây Du Ký” (sau nầy còn được chuyển thể thành phim nhiều tập rất ăn khách). Qua các tác phẩm đó, hình ảnh của ngài đã gây ấn tượng rất mạnh, rất sâu sắc trong lòng mọi người. Trong mắt họ, ngài vừa là vị Bồ tát thần thông quảng đại có tài hàng phục ma quỉ cứu khổ cứu nạn chúng sinh, vừa là người mẹ hiền từ nhân hậu, chan chứa tình yêu thương, luôn luôn và sẳn sàng giúp đỡ, sẻ chia khổ đau bất hạnh của chúng sinh, cho nên, khi gặp khổ đau bất hạnh họ đều cầu cứu đến ngài. Có thể nói, Bồ tát Quán Thế Âm có một chỗ đứng đặc biệt trang trọng trong đời sống tâm linh của quảng đại quần chúng.
Có người thắc mắc tại sao hầu hết các vị Phật và Bồ tát đều là đàn ông, chỉ có Quán Thế Âm là đàn bà? Tại sao danh xưng của ngài là Quán Thế Âm? Về câu hỏi thư nhất, thiết nghĩ, Bồ tát là nam hay nữ không đáng để bàn cãi vì nó thuộc phần tướng. Mà, vạn pháp vô thường cho nên mọi thứ tướng đều có thể thay đổi là chuyện đương nhiên, không nên chấp. Cái cần tìm hiểu và biết rõ là đức tính và đạo hạnh của ngài, cái thường hằng bất diệt, mới quan trọng và hữu ích.
Theo kinh sách ghi lại thì ngài đã tu thành chánh quả bằng năm thứ quán là: chơn quán, thanh tịnh quán, từ quán, bi quán và quảng đại trí huệ quán. Do đó ngài đã đạt được sự diệu dụng của tự tánh, vô trụ năng sở, lục căn dung thông (hay còn gọi là nhĩ căn viên thông), nghe được tất cả mọi thứ âm thanh trên thế gian nên mới có danh hiệu Quán Thế Âm. Ngoài ra ngài còn đạt được Vô Duyên Từ (độ chúng sinh vui mà chẳng có năng độ) và Đồng Thể Bi (độ chúng sinh lìa khổ mà chẳng có sở độ) và trí huệ rốt ráo quán chiếu khắp nơi nên lập hạnh nguyện rằng bất cứ chúng sinh nào gặp thất vọng khổ đau, thiên tai nhân họa nếu nhất tâm xưng niệm danh hiệu của ngài thì ngài sẽ tìm đến, thị hiện giúp đỡ chúng sinh đó xa lìa khổ đau thất vọng, đạt được hạnh phúc an vui.
Lại có người bảo hồi nào tới giờ có ai thấy Bồ tát thị hiện giúp đỡ ai đâu?
Không! Bồ tát có thị hiên và thị hiện rất nhiều nhưng không phải bằng hình ảnh mà chúng ta thường thấy!. Theo kinh sách thì Bồ tát có khả năng hóa thân thành ba mươi hai loại người khác nhau theo nhu cầu của chúng sinh. Hiện tại, hóa thân của Bồ tát là những nhà hảo tâm trong các tổ chức từ thiện xã hội trên khắp mọi miền đất nước. Tôi xin đưa ra một điển hình. Mới đây, vợ chồng anh Hùng và chị Phượng ở xóm tôi bị tai nạn giao thông. Anh Hùng chết tại chỗ, chị Phượng bị thương rất nặng, “thập tử nhất sanh”. Mặc dù được các y bác sĩ cứu sống nhưng muốn cho những tổn thương trên cơ thể lành lặn và sức khỏe hồi phục, chị Phượng phải nằm điều trị tai bệnh viện một thời gian dài. Chồng chết, ba con còn nhỏ dại, mẹ chồng già nua, gia đình nghèo túng nên chị Phượng không đủ khả năng nằm viện tiếp tục, đành phải về nhà trị bệnh bằng sự giúp đỡ nhỏ giọt của thân nhân, xóm giềng và thuốc nam. Thấy hoàn cảnh của chị quá thương tâm, một ông hàng xóm tốt bụng âm thầm viết thư nhờ địa chỉ Nhân Đạo đài THVL giúp đỡ. Sau khi được quay phim và phát sóng trên đài vài tuần thì có bốn năm trăm nhà hảo tâm khắp nơi, của ít lòng nhiều, giúp đỡ chị Phượng vài chục triệu đồng. Nếu không có những nhà hảo tâm (hóa thân của Bố tát) như thế thì những người nghèo khó, cơ nhỡ, neo đơn, bệnh hoạn, tai ương như chị Phượng làm sao vơi bớt được phần nào thất vọng khổ đau.
Tuy nhiên, đó là phần dụng, còn phần thể thì sâu xa uyên áo hơn nhiều. Trọng tâm của nó là tự tánh tự độ. Tự tánh của chúng ta luôn luôn chơn thật, thanh tịnh, từ bi và trong sáng nhưng chúng ta không thấy không biết mà cứ ngỡ cái tâm vọng động, tham lam, u tối, mê muội là của chúng ta nên luôn luôn khổ đau thất vọng. Nếu chúng ta tu hành đúng theo năm thứ.quán như Bồ tát thì sẽ thấy sự diệu dụng của tự tánh. Khi đó vọng niệm sẽ không còn, lục căn dung thông, ô uế rửa sạch, năng sở tiêu trừ; từ bi thể hiện, ngã chấp đoạn diệt, tình thương phát huy cùng tột; trí huệ minh mẫn rốt ráo. Tóm lại, khi sức diệu dụng của tự tánh thị hiện nghĩa là chúng ta đã tự thoát khổ và có thể độ thế gian thoát khổ như chúng ta (quán âm diệu trí lực, năng cứu thế gian khổ).
Bồ tát không chỉ quán chiếu thế gian mà còn quán chiếu vào bản thân mình, thấy “ngũ uẩn giai không” nên tất cả khổ ách đều tiêu tan sạch sẽ. Quán Tự Tại trong “Bát Nhã Tâm Kinh” là tên khác của Bố tát Quán Thế Âm.
Đạo Phật có nhiều vị Bồ tát, mỗi vị có đức tính và đạo hạnh riêng. Các vị là những người ưu tú, thông minh, trí tuệ siêu việt trên đường tu tập. Các vị đã chứng ngộ bồ đề nhưng theo tinh thần “tự giác giác tha, giác hạnh viên mãn” nên trước khi nhập niết bàn các vị tự nguyện ở lại thế giới ta bà hoằng pháp hóa độ chúng sinh, chỉ cho họ con đường đi đến Phật quả như các vị. Đây là một quyết định khó khăn nhưng đầy lương tâm của Phật và là sự phát triển đặc trưng của Phật giáo Đại thừa nói riêng và Phật giáo nói chung. Nếu không có các vị “khai” thì chúng sanh khó bề “thị” và “ngộ, nhập” Phật tri kiến được. Phẩm “Phổ Môn” trong kinh Pháp Hoa cũng có nghĩa đó, phổ biến thị hiện sức dụng thần thông của tự tánh cho mọi người noi theo tu tập, quán chiếu./
TRƯƠNG HOÀNG MINH