1. Hiện đại hóa được hiểu theo các ý như sau:
Hiện đại hóa được hiểu như là sự vận động lịch đại của văn học, cái sau mới hơn cái trước, khác cái cũ trước đó. Nó được hiểu là một quá trình diễn ra liên tục không ngừng, như một dòng chảy lịch đại.
Hiện đại hóa là quá trình khi văn học bắt đầu có được đăc điểm tính chất như văn học ngày hôm nay. như vậy hiện đại hóa đồng nghĩa với đương đại.
Hiện đại hóa như một quá trình ra nhập vào quỹ đạo chung của các nền văn học đã được quốc tế hóa. Tức là quá trình hội nhập vào dòng chảy các nền văn học tiên tiến đương đại phương Tây, nên còn gọi là phương Tây hóa.
Hiện đại hóa như một chuỗi tiến bộ nghệ thuật, một sự vận động từ thấp lên cao từ dở đến hay theo phạm trù giá trị.
- Cho nên bản chất khái niệm hiện đại hóa là quá trình làm cho văn học thoát ra khỏi hệ thống thi pháp văn học Trung đại để xây dựng một hệ thống thi pháp mới theo mô hình của văn học phương Tây ( chủ yếu là văn học Pháp) nhằm hội nhập với nền văn học hiện đại thế giới.
Vượt qua tính uyên bác cách điệu hóa: Không phải là kiểu tích cú tầm chương của văn học Trung Đại với hàng loạt các điển tích điển cố khó hiểu khó nhớ, thay vào đó sự sáng tạo với vốn hiểu hiết sâu rộng và tư duy mang tính triết lý cao.
Phá bỏ tính phi ngã, sùng cổ với cả một hệ thống các tiêu chuẩn, quy ước đã chuẩn mực đánh giá cho các giá trị đời sống: Nói đến vua hiền phải ví như Nghiêu, Thuấn; nói đến sức mạnh phải nói như Hạng Vũ; nói đến trí tuệ phải kể như Gia Cát,... Cả đời phấn đấu chỉ để cố cho bằng được cổ nhân, cho nên không bao giờ vượt qua cái bóng cổ nhân để có sự sáng tạo mới mẻ của riêng mình. Đã đến lúc phải đưa văn học thoát ra cái cực đoan này, để tránh sự nhàm chán khô cứng, nhất phiến xưa nay.
Bước đầu văn học phải thay đổi về mặt nội dung tư tưởng cũng như mục đích sáng tác. Sau đó có những tìm tòi sáng tạo về mặt nghệ thuật, đặt nền móng xây dựng hệ thống thi pháp hiện đại. Văn học phải thể hiện tiếng nói cá nhân, tự do dân chủ, phải được quốc ngữ hóa, đại chúng hóa và chuyên nghiệp hóa.
2. Phân tích bất kỳ tác phẩm hay tác giả nào đó để làm rõ cho những ý trên của hiện đại hóa. Ở đây nói về nét đại hóa trong bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu.
VỘI VÀNG - XUÂN DIỆU
“Tôi là con chim đến từ núi lạ
Ngửa cổ hót chơi.”
(Lời thơ vào tập Gởi hương)
Thơ là tiếng lòng riêng của người nghệ sĩ. Không còn cái quan niệm: "Văn dĩ tải đạo, thi dĩ ngôn chí." như văn học Trung đại. Thơ mới thể hiện một cái tôi mãnh liệt độc đáo của mỗi người nghệ sĩ. Cái tôi của Xuân Diệu là cái tôi đầy khát khao yêu đương hạnh phúc. Tình yêu, hạnh phúc vốn là ước mơ khát vọng muôn đời của con người. Nhưng, nó đã không được thể hiện hết mọi khía cạnh riêng tư trong quan niệm của Phong kiến Nho giáo. Đầu thế kỷ XX khi những mưu cầu yêu đương hạnh phúc của con người được cất lên thành tiếng, các nhà văn nhà thơ thi nhau nói tiếng nói của lòng mình. Sinh ra trong thời đại ấy, Xuân Diệu đã say sưa, hết mình cất lên dọng hót hay nhất độc đáo nhât của mình.
Tiếng lòng của Xuân Diệu là một tiếng lòng mới lạ độc đáo trong thơ mới thời kỳ này. Với hồn thơ hết sức tha thiết sôi nổi, nhưng lại vô cùng tinh tế nhạy cảm, cất lên vì tình yêu, vì khát vọng hạnh phúc. Ai cũng có tình yêu cũng mong cầu hạnh phúc nhưng mấy ai có cái đa tình, đa dạng trong yêu đương như Xuân Diệu. Đối với Xuân Diệu một người thi sĩ là một người sống hết mình, giao hòa với tất cả vũ trụ. Vội vàng thể hiện một tình yêu tuổi trẻ mãnh liệt, sôi sục sức sống của riêng Xuân Diệu. Nó chình là giọng hót mê say, hết mình của loài chim lạ nơi chốn nhân gian.
"Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất,
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi."
Ngay khổ đầu bài thơ, Xuân Diệu đã thể hiện hết mình một lẽ sống: sống để yêu thương, phụng thờ cả thế giới bằng trái tim yêu nồng cháy, sống say mê hăm hở, đầy tham lam vội vàng. Từ nghìn năm tước, các bậc tiền bối đã có những vần thơ tràn trề về tình yêu đối với mùa xuân và cuộc sống. Nhưng yêu đến mức có những ham muốn táo bạo và khác thường như Xuân Diệu, đó là điều thật mới mẻ, thật mãnh liệt. Đặc biệt là cái cách thể hiện tình yêu hiện đại của nhà thơ. Trong thơ ca trung đại, nét nổi bật là tính phi ngã, cái tôi trữ tình thường ẩn náu sau những hình tượng thiên nhiên. Trong khi đó, Xuân Diệu lại bộc lộ một ý thức về cái tôi trữ tình táo bạo, muốn cướp cả quyền tạo hóa để khẳng định cái lòng yêu tha thiết của mình.
Trong thơ ca của những thi sĩ lãng mạn ngày xưa, thiên đường luôn ở nơi xa xôi, chốn bồng lai tiên cảnh, là nơi mây gió trăng hoa, thì trong quan niệm thơ của Xuân Diệu, cuộc sống trần gian mới thực là nơi hạnh phúc nhất, là nơi xinh đẹp và căng mọng nhựa sống nhất! Thơ lãng mạn của ông không có niềm say mê ngoại giới, khác giới mà là một niềm khát khao giao cảm với đời, một lòng ham sống mãnh liệt đến tràn đầy. Dường như lòng yêu đời, yêu cuộc sống của ông đã biến thành cái ham muốn "tắt nắng", "buộc gió" trở nên quá táo bạo, đến độ lo âu trước sự thay đổi của đất trời, cảnh vật...muốn ôm tất cả, muốn giữ lại tất cả thiên nhiên với vẻ đẹp vốn có của nó. Ước muốn níu giữ thời gian, chặn vòng quay của vũ trụ, đảo ngược quy luật tự nhiên, phải chăng là ông đang muốn đoạt quyền tạo hóa. Nhưng trong cái phi lí đó, vẫn có sự đáng yêu của một tâm hồn lãng mạn yêu cuộc sống. Với ông, sống là cả một hạnh phúc lớn lao, kỳ diệu, sống là để tận hưởng và tận hiến. Thế giới này được Xuân Diệu cảm nhận như một thiên đường trên mặt đất, một bữa tiệc lớn của trần gian. Nhà thơ đã cảm nhận bằng cả sự tinh vi nhất của một hồn yêu đầy ham muốn, nên sự sống cũng hiện ra như một thế giới đầy xuân tình. Cái thiên đường sắc hương đó hiện ra trong "Vội vàng" vừa như một mảnh vườn tình ái, vạn vật đương lúc lên hương, vừa như một mâm tiệc với một thực đơn quyến rũ, lại vừa như một người tình đầy gợi cảm. Có thể nói Xuân Diệu luôn say đắm với tình yêu và hăng hái với mùa xuân đầy thanh sắc.
"Của ong bướm này đây tuần tháng mật;
Này đây hoa của đồng nội xanh rì;
Này đây lá của cành tơ phơ phất;
Của yến anh này đây khúc tình si."
Nếu Nguyễn Trãi nói "Cỏ non như khói bến xuân tươi", Nguyễn Du nói "Cỏ non xanh rợn chân trời, Cành lê trắng điểm một vài bông hoa", thì Xuân Diệu cũng nói đến hoa cỏ mùa xuân, nhưng ở một cái độ chín rất Xuân Diệu. Đó là độ cảm nhận tinh tế của trái tim thi sĩ trẻ lần đầu tiên phát hiện ra cả 1 thiên dường trên mặt đất. Các nhà thơ xưa chỉ sử dung thính giác và thị giác để cảm nhận vẻ đẹp của ngoại giới thì các thi sĩ thời thơ mới lại huy động tất cả các giác quan từ nhiều góc độ để cảm nhân vẻ đẹp và sự quyến rũ đắm say hồn người của cảnh vật và đất trời lúc xuân sang. Trong đoạn thơ, điệp ngữ "này đây" được sử dụng 5 lần kết hợp với lối kiệt kê khiến nhịp thơ trở nên dồn dập, là một sự chỉ trỏ ngơ ngác, ngạc nhiên, lạ lẫm, như một tiếng reo vui sướng tột cùng để rồi chìm ngập đắm say trước trùng trùng điệp điệp: Của ong bướm là “tuần tháng mật” ngọt ngào, là hoa thơm của đồng nội xanh “rì”, nào là lá của cành tơ “phơ phất”, của yến anh là những khúc tình “si”; thể hiện sự phong phú bất tận của thiên nhiên. Tất cả mọi giác quan của thi sĩ như rung lên, căng ra mà đón nhận tất cả, cảm nhận tất cả. Sự sống ngồn ngộn đang phơi bày, thiên nhiên hữu tình xinh đẹp thật đáng yêu như một sự gợi mở hấp dẫn đến lạ kì, một sự mời mọc mà thiên nhiên là những "món ăn" có sẵn. Những vẻ đẹp được liệt kê bằng những tính từ đậm nhạt khác nhau để thể hiện tài năng sử dụng từ ngữ của Xuân Diệu. Cảnh vật trong thơ ông đã trở nên cuộn trào sắc màu, cuộn trào sức sống. Sự vật bình thường ở ngoài đời cũng được đặt cho một dáng vẻ rất kiêu, rất hãnh diện, được trực tiếp nhận ánh sáng rực rỡ của lòng yêu cuộc sống từ hồn thơ Xuân Diệu đã trở nên lung linh, đẹp đẽ, là biểu tượng của mùa xuân và tuổi trẻ ở giữa cuộc đời! Thi pháp hiện đại đã chắp cánh cho những cảm giác mới mẻ của Xuân Diệu, giúp nhà thơ diễn tả trạng thái hồn nhiên, bồng bột trước cái sắc xuân trong cảnh vật, trong đất trời và của muôn loài. Cách ngắt nhịp trong đoạn thơ đầy linh hoạt, biến hoá (3/2/3 và 3/5). Đặc biệt là những hình ảnh, những khung cảnh được miêu tả thật cụ thể, in đậm phong cách Xuân Diệu: tuần tháng mật, đồng nội xanh rì ... tất cả tràn trề sự sống và thật đắm say!
"Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi buổi sớm thần vui hằng gõ cửa
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa
Tôi không chờ nắng hạ mới hòai xuân."
Chưa bao giờ trong thơ văn Trung đại Việt Nam, hình ảnh mặt trời - vầng thái dương lại hiện ra dịu dàng, tình tứ và lãng mạn đến thế. Với Xuân Diệu, mỗi ngày được sống, được nhìn thấy mặt trời, được tận hưởng sắc hương của vạn vật là một ngày vui. Hình ảnh "thần vui hằng gõ cửa" gợi những liên tưởng gần gũi với hình tượng mặt trời trong thần thoại hy lạp xưa. Niềm vui sướng trong tâm hồn nhà thơ dâng tràn khiến ngòi bút của Xuân Diệu thật sự xuất thần và thi sĩ đã sáng tạo nên 1 câu thơ tuyệt bút:"Tháng giêng ngon như một cặp môi gần". Một chữ “ngon” chuyển đổi cảm giác thần tình, một cách so sánh vừa lạ vừa táo bạo. Đây là câu thơ hay nhất, mới nhất cho thấy màu sắc cảm giác và tâm hồn yêu đời, yêu cuộc sống đến cuồng nhiệt của thi sĩ Xuân Diệu. Nhà thơ đem lại một khái niệm vốn trừu tượng thuộc về thời gian "tháng giêng" so sánh với một hình ảnh vốn cụ thể, mang tính nhục cảm. Nhưng sao câu thơ Xuân Diệu vẫn tinh khôi, vẹn nguyên, trong sáng, lại gần gũi và trẻ trung đến thế. Cái mới trong thơ tình Xuân Diệu là thế! Đó là sư kết hợp hài hoà giữa tâm hồn và thể xác khiến tình yêu thăng hoa. Đang ở đỉnh điểm của hạnh phúc, tâm hồn nhà thơ trỗi lên nỗi âu lo trước cái mong manh của xuân sắc sẽ phai tàn, sự đan xen hai luồng cảm xúc trái ngược là điều thường gặp trong thơ tình Xuân Diệu. Nó dẫn nhà thơ đến những suy tư và quan niệm nhân sinh mang tính triết lý. Thi nhân nhận ra cái quy luật khắc nghiệt của dòng chảy thời gian: "tất cả sẽ qua đi, tất cả sẽ lụi tàn ..." Hai tâm trạng trái ngược nhưng dồn nén trong dòng thơ "Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa". Về hình thức, đây là một cấu trúc độc đáo bởi nó ngắt thành 2 câu chứa đựng 2 tâm trạng, 2 cảm xúc: sung sướng - vội vàng. Điều mà Xuân Diệu muốn diễn tả là "vội vàng một nửa". Thường thì con người ở tuổi trung niên mới tiếc tuổi xuân. Ở đây Xuân Diệu đang xuân, đang quá đỗi trẻ trung mà đã nuối tiếc, đã vội vàng "Tôi không chờ nắng hạ mới hòai xuân." Vì sao vậy? Bởi với Xuân Diệu:
"Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua.
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già.
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,
Không cho dài thời trẻ của nhân gian
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hòan,
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại
Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;
Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi,
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt.
Cơn gió xinh thì thào trong lá biếc,
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi,
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?
Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa.
Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm,"
Không còn cái phong thái tĩnh tại tự chủ của thi ca Trung đại. Trước cảnh sắc "Xuân khứ bách hoa lạc, xuân đáo bách hoa khai." vũ trụ luôn tuần hoàn thay đổi con người vẫn điềm nhiên trong cái tư thế "Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết, đêm qua sân trước một nhành mai." Quan niệm của Xuân Diệu vừa phi lí, vừa hợp lí, vừa quen lại vừa lạ. Quen vì người xưa cũng cảm nhận "xuân thì bất tái lai", nhưng rất lạ bởi đó là tiếng nói của một cái tôi ham sống, coi mùa xuân, tuổi trẻ và tình yêu là tất cả sự sống của mình. Biết rằng mùa xuân của đất trời vẫn tuần hoàn nhưng tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại, thi sĩ bâng khuâng, tiếc nuối ... Mối tương giao mầu nhiệm của cảnh vật, của tạo vật hình như cũng mang theo nỗi buồn “chia phôi”, hoặc “tiễn biệt”, phải “hờn” vì xa cách, phải “sợ” vì “độ phai tàn sắp sửa”. Cũng là “gió”, là “chim”… nhưng gió khẽ “thì thào” vì “hờn”, còn “chim” thì bỗng ngừng hót, ngừng reo vì “sợ”! Câu hỏi tu từ xuất hiện cũng là để làm nổi bật cái nghịch lý giữa mùa xuân – tuổi trẻ và thời gian. Phải chăng cũng đang hờn vì nỗi phải bay đi? Con người hiện đại sống với quan niệm thời gian tuyến tính, thời gian như một dòng chảy mà mỗi một khoảnh khắc qua là mất đi vĩng viễn... Trái tim Xuân Diệu quá đỗi đa cảm, tâm hồn nhà thơ quá đỗi tinh tế trước bước đi của thời gian nên luôn cảm thấy "chẳng bao giờ. Ôi! chẳng bao giờ nữa...". Thế giới trong cảm nhận của Xuân Diệu luôn luôn biến đổi từng phút từng giây, con người và thiên nhiên đếu không có gì vĩnh cửu, không trở lại bao giờ. Với Xuân Diệu chỉ có giây phút hiện tại, hiện tại là phút huy hoàng nhất, là "giờ họp mặt", là "phút chao yêu" nên ông luôn vội vàng gấp gáp, khát khao uống từng giọt hiện tại.
"Ta muốn ôm.
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chuếnh choáng mùi hương, cho đã đầy ánh sáng,
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!"
Hình thức trình bày đoạn thơ rất đặc biệt, thể hiện dụng ý nghệ thuật của tác giả. Ba chữ "Ta muốn ôm" được đặt ở giữa dòng thơ mô phỏng hình ảnh nhân vật trữ tình đang dang rộng vòng tay để ôm tất cả sự sống lúc xuân thì - sự sống giữa thời tươi vào lòng. Đó là chân dung của một cái tôi đầy tham lam, ham hố đang đứng giữa trần gian cuộc đời, để ôm cho hết, riết cho chặt, cho say, cho chếnh choáng; thâu cho đã đầy, cho no nê, cho tới tận cùng những hương sắc của đất trời mùa xuân... Tất thảy đều vồ vập, khát khao đến cháy bỏng với các mong muốn được giao hoà, giao cảm mãnh liệt với vạn vật, với cuộc đời. Đây quả là một khát khao vô biên, tuyệt đích, rất tiêu biểu cho cảm xúc thơ Xuân Diệu. Điệp từ, điệp ngữ được sử dụng bới tần số dày đặc trong cả đoạn thơ tiêu biểu cho nhịp điệu dồn dập, đầy bồng bột, đắm say. Chính những câu thơ đó lưu lại trong ta ấn tượng về một dòng sông cảm xúc cứ dâng trào, ào ạt từ câu mở đầu cho đến câu cuối cùng bài thơ. Chỉ riêng điệp ngữ ta muốn được điệp tới bốn lần, mỗi lần điệp đi điệp lại liền với một động từ diễn tả một trạng trái yêu thương mỗi lúc một nồng nàn, say đắm: ôm, riết, say, thâu. Đó chính là đỉnh điểm của cảm xúc bồng bột, sôi nổi và đắm say khiến nhà thơ phá tung những quan niệm của thi pháp trung đại để biểu lộ tâm hồn mình trong một cách nói tưởng như vô nghĩa mà hoá ra rất sáng tạo "Và non nước, và cây, và cỏ rạng." Một trạng thái tham lam, ham hố không có điểm tận cùng trong tâm hồn nhà thơ. Trong cảm nhận của thi nhân, cuộc đời trần thế như bày ra cả một bàn tiệc với tất cả hình ảnh của cuộc sống tươi non, đầy hương sắc. Nhà thơ diễn tả thiên nhiên bằng các mĩ từ, lại nhân hoá khiến nó hiện ra như con người có hình hài và mang dang dấp của tuổi xuân. Câu cuối cùng kết thúc cả bài thơ: "Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi." Đây là lời gọi thiết tha với sự cuồng nhiệt cao độ của 1 trái tim khao khát tình yêu và cuộc sống. Trong hồn thơ Xuân Diệu, mùa xuân - tuổi xuân ngon lành và quyến rũ như một trái chín ửng hồng, như mời mọc. Trong câu thơ này, hình ảnh xuân hồng với từ "cắn" khiến câu thơ thật gợi cảm xen chút giật mình trước tứ thơ thật độc đáo, diễn tả niềm khao khát giao cảm mãnh liệt. Sự ham hố cuồng nhiệt của Xuân Diệu, mãi mãi ham muốn, khát vọng không giới hạn.
Với bài thơ "Vội vàng", Xuân Diệu đã phả vào nền thi ca Việt Nam một trào lưu "Thơ mới". Mới lạ nhưng táo bạo, độc dáo ở giọng điệu và cách dùng từ, ngắt nhịp, nhất là cách cảm nhận cuộc sống bằng tất cả các giác quan, với một trái tim chan chứa tình yêu. "Vội vàng" đã thể hiện một cảm quan nghệ thuật rất đẹp, mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Đó là lòng yêu con người, yêu cuộc đời. Đó là tình yêu cảnh vật, yêu mùa xuân và tuổi trẻ... Và là ham muốn mãnh liệt muốn níu giữ thời gian, muốn tận hưởng vị ngọt ngào của cảnh sắc đất trời "tươi non mơn mởn". Phải chăng trời đất sinh ra thi sĩ Xuân Diệu để sở hữu tất cả tình đời, để ca hát về tình yêu, để nhảy múa trong những điệu nhạc tình si.
Xuân Diệu đã thể hiện cái tôi cá nhân là chủ thể mãnh liệt của vũ trụ, con người là tiêu chí rà soát, đánh giá mọi giá trị. Lần đầu tiên trong văn học không phải con người mang dáng vẻ thiên nhiên nữa mà là thiên nhiên mang dáng vẻ con người. Hạnh phúc không phải ở một thiên đường xa thẳm mà hạnh phúc nằm ngay nơi cõi nhân gian. Đem hết lòng say đắm Xuân Diệu tạo nên những tứ thơ hiện đại điêu luyện với ngôn từ mới mẻ độc đáo đầy chất thi ca. Ông đóng góp cho thơ mới một thế giới thơ tình phong phú, đầy hương sắc và âm thanh, thể hiện là một nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới.
|